logo

Nghị luận cảm nhận bài thơ “Ngôn chí” số 11 của Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi có rất nhiều các bài thơ chữ Nôm nổi tiếng, thể hiện cốt cách và tâm hồn của nhà thơ trước cuộc đời. Qua việc nghị luận cảm nhận bài thơ “Ngôn chí” số 11 của Nguyễn Trãi, chúng ta sẽ làm rõ những đặc sắc trong thơ ông cùng vẻ đẹp cốt cách của tác giả nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam.


Dàn ý Nghị luận cảm nhận bài thơ “Ngôn chí” số 11 của Nguyễn Trãi

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi và bài thơ Ngôn chí số 11

- Khái quát giá trị của bài thơ

2. Thân bài

- Hai câu thơ đầu tiên là hình ảnh thiên nhiên đầy trong sáng, thanh cao cho thấy lối sống gần gũi, hòa nhập với cuộc đời của nhà thơ.

- Đó là khung cảnh đơn sơ: cỏ mọc trước hiên nhà, bóng trúc rủ như quét sạch những vương vấn của bụi trần.

- Bốn câu tiếp: cái duyên trong ba kiếp của tác giả từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, cho thấy tâm hồn nặng lòng với cuộc đời của nhà thơ. Cái nghiệp duyên ở đâu chính là nghiệp với văn chương

- Hai câu kết thúc bài thơ: là nỗi niềm đau đáu chưa báo đáp được ơn vua cũng là cái nhìn về cuộc đời, về những kẻ hám danh lợi mà bán đứng cha mẹ, đất nước.

3. Kết bài

- Khẳng định giá trị của bài thơ

- Đánh giá tài năng của tác giả

- Liên hệ bản thân


Nghị luận cảm nhận bài thơ “Ngôn chí” số 11 của Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi được đánh giá là ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam thế kỷ 15. Các tác phẩm thơ chữ Hán và chữ Nôm của ông có thể xếp vào dạng tuyệt bút. Trong đó bài thơ Ngôn chí số 11 trích trong tập “Quốc âm thi tập” (tuyển tập những bài thơ nôm của Nguyễn Trãi) được đánh giá là một trong những bài thơ đặc sắc hơn cả. Trong bài thơ chúng ta thấy được một cốt cách, một tâm hồn đẹp của một vị quân tử. 

Nghị luận cảm nhận bài thơ “Ngôn chí” số 11 của Nguyễn Trãi

      “Ngôn chí” số 11 của Nguyễn Trãi được sáng tác trong thời gian ở ẩn ở Côn sơn quê ông. Sau thời gian dài cống hiến cho nhà Lê, vì không muốn sống chung với bè lũ quan lại nịnh thần, chỉ hám danh lợi Nguyễn Trãi quyết định cáo quan về ở ẩn. Tâm hồn giao hoà với thiên nhiên nhưng vẫn mang nặng những tâm sự thời cuộc, về vận mệnh của non sông, đất nước được thể hiện rất rõ trong bài thơ.

      Hai câu thơ đầu tiên là hình ảnh quen thuộc của chốn điền viên quê hương ông:

“Cỏ xanh cửa dưỡng để lòng nhân,

Trúc rợp hiên mai quét tục trần.”

      Chúng ta có thể hiểu ở đây là cỏ xanh phát triển tự nhiên giống với quan niệm dưỡng để lòng nhân. Khi chúng ta không làm hại đến cỏ, đến tự nhiên tức không làm tổn hại bất cứ ai trong cuộc đời. Như vậy đạo lý nuôi dưỡng tấm lòng nhân hậu, từ bi, hỷ xả bắt nguồn từ chính những điều giản dị, thân quen nhất. Đến câu thơ thứ hai vẫn là một nét vẽ về khung cảnh của thiên nhiên bình dị, đơn sơ với hình ảnh trúc mọc rợp hiên như quét hết bụi trần. Hai câu thơ vừa vẽ ra được một khung cảnh bình dị, đơn sơ với cỏ xanh mọc đầy trước cửa, trúc rợp rủ bóng trước hiên nhà, lại vừa gợi lên một cuộc sống hoà mình với thiên nhiên của tác giả.

      Những câu thơ tiếp theo là hình ảnh của bậc thi nhân với tâm hồn nặng lòng với thời cuộc, thế sự:

“Nghiệp cũ thi thư hằng một chức,

Duyên xưa hương hỏa tượng ba thân.

Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt,

Ðỗ Phủ thơ nên bút có thần.”

      Những câu thơ khơi gợi hình ảnh của một vị thi nhân với tâm hồn nặng lòng với nghiệp văn chương. Theo tác giả Nguyễn Trãi cái kiếp khách thơ theo ông suốt ba kiếp từ quá khứ, đến hiện tại và cả tương lai thông qua quan niệm “ba thân” trong phật giáo. Cái nghiệp khách thơ tuy không mang lại giá trị vật chất gì nhưng lại giúp nuôi dưỡng tinh thần cho thi sĩ, giúp bậc thi nhân tìm thấy niềm vui trong cuộc đời. Vì thế dù có cáo quan về quê làm một lão nông chi điền thì ông vẫn trung thành với nghiệp văn chương đến hết cuộc đời.

      Ở khổ thơ này Nguyễn Trãi có nhắc đến hai bậc hiền triết là Nhan Uyên và Đỗ Phủ.  Nhan Uyên nổi tiếng với lối sống thanh bạch, khiêm tốn; còn Đỗ Phủ nổi tiếng là thần thơ với những câu thơ hàng tuyệt bút. Có lẽ Nguyễn Trãi cũng noi theo lối sống của các vị hiền triết ấy để giữ trọn cốt cách thanh cao của mình:

      Bài thơ khép lại bằng hai câu thơ:

“Nợ quân thân chưa báo được,

Hài hoa còn bợn dặm thanh vân.”

      Nợ quân thân ở đây là món nợ vua tôi và cha mẹ chưa báo đáp được. Dù Nguyễn Trãi đã phò tá vua Lê Lợi đánh tan giặc Minh, bình ổn đất nước, xưng vương và lên ngôi làm vua nhưng với ông chừng ấy chưa đủ. Phải cáo quan về ở ẩn trong tình thế đất nước vẫn còn thù trong giặc ngoài nên Nguyễn Trãi vẫn cảm thấy hổ thẹn vì chưa báo đáp được hết ơn vua, chưa giúp được vua bình yên thiên hạ. Bên cạnh đó Nguyễn Trãi cũng bộc lộ cái nhìn đầy mỉa mai dành cho những kẻ chỉ hám danh, hám lợi mà bán cả cha mẹ, vua và đất nước.

      Thông qua bài thơ “Ngôn chí” chúng ta thấy được vẻ đẹp trong cốt cách con người của Nguyễn Trãi. Đó là một tâm hồn thanh bạch, bình dị với lối sống chan hoà với thiên nhiên và luôn nặng lòng với thời cuộc, luôn đau đáu được cống hiến cho đất nước, nhân dân.

      Với bài thơ “Ngôn chí” chúng ta thấy được tài năng của Nguyễn Trãi trong việc sử dụng chữ nôm với thể thơ Đường luật quen thuộc. Những thi liệu vẫn hay được sử dụng trong thơ Đường như cỏ, trúc, quân thân… được vận dụng hài hoà khiến bài thơ vừa có chất cổ điển, vừa mang đậm dấu ấn của Nguyễn Trãi.

-------------------------------------------

Trên đây Toploigiai đã cùng các bạn Nghị luận cảm nhận bài thơ “Ngôn chí” số 11 của Nguyễn Trãi. Chúng tôi hi vọng các bạn đã có kiến thức hữu ích khi đọc bài viết này, chúc các bạn học tốt.

icon-date
Xuất bản : 24/03/2023 - Cập nhật : 13/07/2023