logo

Phân tích Thuật Hứng 15

Hướng dẫn chi tiết phân tích Thuật Hứng 15 của tác giả Nguyễn Trãi qua đó giúp bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, tình cảm và tâm hồn của nhà thơ lớn của dân tộc. Hãy theo dõi cùng chúng tôi nhé!


Dàn ý Phân tích Thuật Hứng 15

1. Mở bài

- Giới thiệu ngắn gọn, khái quát về tác giả Nguyễn Trãi và bài thơ Thuật hứng 15

+ Sáng tác khi Nguyễn Trãi cáo quan về quê ở ẩn ở Côn Sơn, Chí Linh, Hải Dương.

+ Thể hiện một tâm hồn Nguyễn Trãi chán ghét danh lợi tầm thường, khát khao một cuộc sống thanh bạch.

2. Thân bài

- Ý 1: Phân tích đặc điểm về nội dung

+ Ngại chốn danh lợi tầm thường và tìm về nơi thôn dã để yên thân, tránh xa những toan tính hẹp hòi của quan trường.

+ Tìm niềm vui và làm bạn với trúc mai, vượn hạc ở chốn thôn dã.

+ Chìm đắm trong hương thơm của cúc, mai, lắng tai nghe tiếng suối

=>Người cao nhân tìm về ở ẩn nơi chốn thôn dã, tìm thú vui điền viên với mây hoa, vượn, hạc nhưng tâm hồn vẫn thoáng chút buồn bã, tiếc nuối thở than về cuộc đời.

- Ý 2: Phân tích đặc điểm nghệ thuật

+ Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, những câu 7 chữ xen câu 6 chữ

+ Những nét đặc sắc trong nghệ thuật tả cảnh, tả tình

+ Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ (cấu trúc thơ, biện pháp tu từ…đặc biệt là thủ pháp đối lập)

3. Kết bài

- Khẳng định giá trị và ý nghĩa của bài thơ


Phân tích Thuật Hứng 15 - Mẫu số 1

      Nguyễn Trãi (1380-1442) là một tác giả văn học nổi tiếng thời Đại việt trong thế kỷ 15. Tập thơ “Quốc âm thi tập” và "Ức trai thi tập" là hai kiệt tác trong nền thơ ca Việt Nam, thể hiện tài năng của nhà thơ. Riêng "Quốc âm thi tập" – là một tập thơ viết bằng chữ Nôm ra đời sớm nhất, tập thơ thể hiện một nhân cách và một tâm hồn Nguyễn Trãi tài hoa, nặng lòng với quê hương, đất nước.

Phân tích Thuật Hứng 15

      Quốc âm thi tập được sáng tác hoàn toàn bằng chữ Nôm. Tập thơ nhìn chung không có tên riêng cho từng bài thơ, nhà thơ nhóm vào thành từ bài như Mạn Thuật, Trần tình, Tự sán, Tức sự, Thuật hứng…. Thuật hứng gồm 25 bài, trong đó bài thơ thứ 15 là bài thơ đặc sắc: 

Đàn cầm suối trong tai dội,

Còn một non xanh là cố nhân.

      Thuật hứng tức là bày tỏ sự hứng thú riêng của mình, đây là tập thơ được Nguyễn Trãi sáng tác trong thời kỳ  ở ẩn Côn Sơn. Sau thời gian làm quan dưới triều vua Lê Lợi, chán ghét chốn quan trường lạc lõng, Nguyễn Trãi quyết tâm rời bỏ để về quê. Cũng như những bài thơ khác trong chùm thơ Thuật Hứng, Thuật hứng số 15 khai thác những đề tài quen thuộc như mai, cúc, non, nguyệt, quân tử, cố nhân… tạo nên vẻ đẹp vừa cổ điển, vừa thanh cao. Bài thơ đã thể hiện một cách sâu sắc đẹp đẽ tình cảm của Ức Trai coi thường chốn danh lợi, thích sống một cuộc sống thanh bạch và lúc nào cũng giữ một tấm lòng trung hiếu, son sắt, thuỷ chung.

      Hai câu đề: động từ “ngại” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh tình cảnh của người khi về ở ẩn. Ngại ở đây là ngại ngần, sợ hãi cái lưới trần, vô hình ở chốn trần gian này. 

Ngại ở nhân gian lưới trần,

Thì nằm thôn dã miễn yên thân.

      Một người anh hùng dân tộc với ngòi bút có thể đuổi hàng vạn quân thù, viết thư thảo hịch động viên tướng sĩ giỏi hơn mọi thời nào, đã từng thay vua viết bản tuyên ngôn độc lập (Bình Ngô Đại cáo) để khẳng định độc lập, chủ quyền của dân tộc mà giờ đây phải chấp nhận cáo quan về quê vì ngại, đành tìm cái thú vui nơi thôn dã với mong muốn được yên thân. Ý thơ có sự chua chát, cay đắng, thoáng chút bẽ bàng của con người trước thời cuộc. Nhưng với người đọc chúng ta hoàn toàn có thể cảm thông bởi khi con người đã quá chán ghét cảnh sống bon chen, lừa lọc thì tìm về nơi thôn dã để yên thân cũng là việc rất đỗi thường tình.

      Hai câu thực là hình ảnh của quân tử với trúc, mai, vượn, hạc. Đây đều là những người bạn rất quen thuộc của người quân tử, cũng là thi liệu quen thuộc trong thơ Đường luật. Ở đây ý nói trúc mai chẳng bao giờ bỏ người quân tử là ta, cũng như ta chẳng bao giờ phụ tình cảm của trúc mai, cũng là cốt cách của người quân tử đáng trọng trong cuộc đời. Tương tự vượn và hạc vốn chẳng xa lạ gì, vẫn là người bạn thân quen của ta, tất cả đều là tri kỉ trong chốn này. Trốn tránh vòng danh lợi thị phi, ghê sợ trước lòng người nham hiểm trong xã hội, chỉ có trúc mai, vượn hạc là những người bạn tâm giao đáng tin cậy của người quân tử.

Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử,

Viên hạc đà quen bạn dật dân.

      Hai câu luận mới thực sự là dạng tuyệt bút: Hái cúc ương lan hương bén áo/ Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn. Chúng ta thấy hình ảnh của một vị hiền triết đang hái cúc, trồng hoa lan, làm bạn với thiên nhiên. Động từ “bén” gợi hương của lan cúc bám vào áo, đậu vào áo, cả không gian thiên nhiên, cả người như thể chìm trong hương hoa thơm ngát, dịu ngọt của đất trời. Lại có khi tìm mai trong vườn, chân bước vướng vào ánh trăng, chân như dẫm lên trăng mà đi. Còn tuyết (sương giá) bám vào khăn giống như những bông hoa trắng tinh. Quả là những hình ảnh thơ vừa thực, vừa ảo, rất riêng trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi.

Đàn cầm suối trong tai dội

Còn một non xanh là cố nhân

      Những câu thơ trên chưa có âm thanh xuất hiện thì hai câu kết là tiếng đàn cầm gảy bên bờ suối dội vào tai. Hoặc cũng có thể hiểu là tiếng suối róc rách chảy giống như tiếng đàn cầm dội vào trong tai của cụ Ức Trai. Âm thanh ấy là âm thanh của cuộc sống nơi điền viên thôn dã, nhưng cũng có khi là âm thanh có sẵn trong tâm tưởng của nhà thơ. Bất cứ khi nào tĩnh tâm thì âm thanh ấy lại dội lại, khiến nhà thơ giật mình.

      Bài thơ Thuật Hứng 15 là bài thơ Đường luật với đề tài không mới, những hình ảnh sử dụng khá ước lệ trong thơ cổ như mai, tuyết, trăng, vượn, hạc… sự mới mẻ nằm trong cách lựa chọn các từ ngữ đắt giá như bén, đạp, xâm… tạo nên những vần thơ vừa thực, vừa ảo. Đặc biệt những câu 6 chữ xen 7 chữ, nghệ thuật đối, đảo được sử dụng nhuần nhuyễn… thể hiện tài năng của nhà thơ Nguyễn Trãi.

      Thuật hứng 15 đã thể hiện được một cốt cách cao đẹp, sẵn sàng rời xa vinh hoa, phú quý để tìm đến những thú vui điền viên. Không trực tiếp bày tỏ tâm sự, nỗi niềm trước thời cuộc nhưng chúng ta vẫn cảm nhận được một hồn thơ Nguyễn Trãi mang đầy tâm sự.


Phân tích Thuật Hứng 15 - Mẫu số 2

      Nguyễn Trãi (1380-1442) là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Các tập thơ "Quốc âm thi tập" và "Ức trai thi tập" của ông được xem là hai kiệt tác của nền thơ ca. Trong đó "Quốc âm thi tập" là tập thơ viết bằng chữ Nôm ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn giữ được 254 bài thơ. Tuy nhiên, không có tên riêng cho từng bài thơ trong "Quốc âm thi tập". Nguyễn Trãi đã nhóm thành nhiều chùm thơ, bao gồm "Ngôn chí", "Mạn thuật", "Trần tình", "Thuật hứng", "Tự thán", "Tức sự", "Bảo kính cảnh giới" và nhiều nhóm khác. Một trong số đó có bài thơ số 15 trong chùm thơ "Thuật hứng" gồm 25 bài là một trong những tác phẩm nổi bật của ông.

      Bài thơ Thuật hứng 15 được Nguyễn Trãi sáng tác khi rút lui về ẩn cư tại lều tranh ở quê hương Côn Sơn, Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Lúc này, Nguyễn Trãi đã trở thành một ẩn sĩ, một người thường, đứng xa danh lợi sau khi đã trải qua quãng thời gian chịu nhiều đớn đau về tinh thần. Bắt đầu từ những câu đề, tác giả đã nói tới lí do về ở ẩn của mình:

Ngại ở nhân gian lưới trần

Thì nằm thôn dã miễn yên thân

      Là một nhà văn, nhà thơ, một anh hùng dân tộc đã trải qua bao năm ở quan trường, đánh đuổi hàng vạn quân thù mà giờ đây lại “ngại nhân gian ở lưới trần" thì sự chua chát, đắng cay đã đến độ sâu thẳm. Cuối cùng tác giả tìm con đường về ở ẩn cũng là điều dễ hiểu và cảm thông. "Thì nằm thôn dã miễn yên thân" - mô tả cách giải thoát của con người khỏi lưới trần đó, thông qua việc rời bỏ cuộc sống xô bồ và tìm kiếm sự yên bình, tĩnh lặng và cân bằng trong đời sống tinh thần. “Thôn dã” được đặt ra như một cách để tách biệt với những ồn ào, hối hả của chốn quan trường, “miễn yên thân” tức là không gặp phải những lo toan và phiền muộn của cuộc sống hiện tại. Hai câu thơ này cho thấy sự nhận thức của Nguyễn Trãi về những khó khăn và rắc rối trong cuộc sống, cũng như cách giải thoát của con người thông qua việc tìm kiếm sự tĩnh lặng và cân bằng trong đời sống tinh thần.

Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử

Viên hạc đà quen bạn dật dân

      Cây trúc, cây mai vốn chẳng xa lạ gì nhưng lại không phụ lòng quân tử, ở đây chính là không phụ lòng tác giả. Bằng việc dùng hoa trúc mai để so sánh, Nguyễn Trãi muốn nhấn mạnh rằng đức tính của người quân tử cũng như hoa trúc mai, tuy không được nổi bật nhưng lại vô cùng quý giá và tuyệt vời. “Viên” (vượn) và hạc là những loài quá quen thuộc, là bạn tri kỉ với người quân tử ở chốn yên bình này. Vì vậy, Nguyễn Trãi đã quyết định lánh về đây nơi thôn dã yên bình để giải thoát tâm hồn khỏi những phiền não của thế sự.

      Đến hai câu luận mới là những câu thơ thần diệu:

Hái cúc ương lan hương bén áo

Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn

     Tác giả hái hoa cúc, ương (trồng) hoa lan mà mùi hương còn “bén” cả áo thì cả trời đất nơi đây đã tràn ngập mùi hương thơm của hoa. Và con người ông cũng đang chìm đắm trong hương hoa của đất trời. Lại có lúc ta tìm mai để thưởng ngoạn, nhưng lại “đạp nguyệt” vướng vào ánh trăng mà đi. “tuyết xâm khăn” ý chỉ tuyết trắng bám vào mảnh khăn như những bông hoa trắng càng làm cho không gian ở ẩn của tác giả thêm mờ ảo. Quả thực hai câu thơ này vừa ảo, lại vừa thực rất sinh động gặp phổ biến trong thơ Nôm Nguyễn Trãi mà không phải ai cũng có.

      Đến hai câu kết, có những âm thanh được vẽ ra:

Đàn cầm suối trong tai dội

Còn một non xanh là cố nhân

      Tác giả đã sử dụng lời thơ để vẽ mắt cho bức hoạ, tạo nên một hình ảnh tuyệt đẹp với âm thanh trong vắt của tiếng suối róc rách. Tiếng nước chảy như những nốt nhạc đàn cầm vang vọng trong tai, mang lại sự êm ái cho tâm hồn người đọc. Đây không phải là lần đầu tiên Nguyễn Trãi sử dụng tiếng đàn cầm để tạo nên một bức tranh thơ, nhưng ở đây, tiếng đàn cầm không chỉ đơn thuần là âm thanh, mà còn là một tình cảm, một cảm xúc âm ỉ, mà chỉ có thể cảm nhận được khi tâm hồn đã yên bình. Với tác giả, trong khoảnh khắc đó, chỉ có một non xanh làm cố nhân mà thôi, mang đến cho người đọc một cảm giác thanh tịnh, an nhiên.

      Trong Thuật Hứng - Bài 15 của Nguyễn Trãi, những hình ảnh quen thuộc như hương lan, hương cúc, cây trúc, hoa mai, vượn, hạc, suối và núi non vẫn được sử dụng nhưng được bổ sung thêm cấu trúc nội hàm và ngữ nghĩa biểu thị phong phú, đem lại cho tác phẩm một vẻ uyển chuyển đầy sức sống của ngôn từ và tư tưởng. Tất cả các chữ trong bài thơ đều có một hồn riêng, như thể chúng đang sống động, đang phát ra hương thơm, đang tỏa sáng cười và chuẩn bị tuyên bố một điều gì đó huyền bí, thú vị. Cảm giác của người đọc như đang bị cuốn vào một thế giới tuyệt vời, đầy màu sắc và âm thanh. Bài thơ này thực sự là một tác phẩm đáng để trân trọng và đọc lại nhiều lần.

      Thuật Hứng 15 của Nguyễn Trãi cho thấy một cái nhìn thực tế, mơ mộng nhưng đầy nghiệt ngã về cuộc sống của tác giả. Trong thời đại thăng trầm, thối nát của triều chính, Nguyễn Trãi không còn cách nào khác ngoài việc trốn về sống ẩn dật. Ông đã quá chán nản với cuộc đời và tìm kiếm sự thanh thản trong những cảnh đẹp của thiên nhiên. Tuy nhiên, dù là ẩn cư trong tự tại, nỗi buồn, nuối tiếc vẫn luôn ở đây, đong đầy trong tâm trí bậc cao nhân. Tác phẩm này là một lời nhắc nhở về những khổ đau và đắng cay của cuộc đời, đồng thời là lời tôn vinh những giá trị tinh thần cao quý trong đó.

--------------------------------------------

Trên đây Toploigiai đã Hướng dẫn chi tiết cho các bạn cách phân tích bài Thuật Hứng 15 của tác giả Nguyễn Trãi Chúng tôi hi vọng các bạn đã có kiến thức hữu ích khi đọc bài viết này, chúc các bạn học tốt.

icon-date
Xuất bản : 20/03/2023 - Cập nhật : 31/07/2023