Tổng hợp dàn ý và bài mẫu Phân tích bài thơ Mạn thuật bài 4 (Dàn ý + 2 mẫu) ngắn gọn, hay nhất, giúp các bạn học tập tốt môn Ngữ văn.
1. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Trãi và bài thơ Mạn Thuật 4
- Bài thơ thất ngôn xen lục ngôn thể hiện tư thế ung dung, thảnh thơi của nhà thơ khi về ở ẩn ở quê nhà Côn Sơn.
2. Thân bài
- Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác, chủ đề, tư tưởng của bài thơ, mạch cảm xúc chủ đạo...
- Phân tích theo khổ dọc hoặc khổ ngang của bài thơ
* Nội dung
+ Hai câu thơ đầu: tâm thế ung dung, nhàn tản của Nguyễn Trãi khi hoà mình vào thiên nhiên.
+ Sáu câu cuối: Những chiêm nghiệm của nhà thơ về thế cuộc, lòng người.
+ Tâm sự của tác giả: buồn đau, thất vọng trước lòng người nham hiểm, độc ác.
* Nghệ thuật
+ Thể thơ Đường luật đã được việt hoá trở thành thể thơ mang hồn cốt của dân tộc.
+ Các câu thơ lục ngôn xen vào bài thơ thất ngôn, vần nhịp, phối thanh biến hoá linh hoạt.
+ Phép đối, đảo ngữ quen thuộc trong thơ Đường luật.
+ Trữ tình và triết lí đan xen mang đến cho bài thơ những giá trị ý nghĩa sâu sắc.
3. Kết bài
- Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
- Một bài thơ Đường luật đặc sắc
- Thể hiện vẻ đẹp cốt cách con người Nguyễn Trãi.
Đại thi hào, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi là tác giả lớn, cây đại thụ trong lịch sử văn học dân tộc ta. Cuộc đời đầy máu và nước mắt của ông khiến bất kỳ ai cũng đều xót xa và đau đớn khi chứng kiến. Thế nhưng vượt lên trên tất cả những bất hạnh ấy, Nguyễn Trãi đã cống hiến hết mình cho nhân dân và cho nghệ thuật. Một trong những đóng góp của Nguyễn Trãi cho nền văn học chính là những bài thơ Đường luật đã được Việt hoá để mang hồn cốt dân tộc như bài thơ Mạn thuật 4. Một bài thơ hay trong chùm bài thơ Mạn thuật của ông.
254 bài thơ Nôm trong tập thơ “Quốc âm thi tập” hướng đến công chúng bình dân với hình ảnh làng quê bình dị, với sinh hoạt đời thường. Những bài thơ Nôm trong tập thơ này cũng thể hiện một tâm hồn Nguyễn Trãi giàu tình yêu với quê hương đất nước, nặng lòng với thời cuộc. Mạn thuật bài 4 là một trong những bài thơ thuộc chùm thơ Nôm của Nguyễn Trãi, cũng là một trong những bài thơ nổi tiếng của ông. Bài thơ thể hiện nỗi niềm sâu kín của nhà thơ trước cuộc đời, thời cuộc với những hình ảnh thiên nhiên gần gũi, thân thuộc.
Hầu hết các nhà nghiên cứu và các tài liệu sách giáo khoa đều khẳng định bài thơ được sáng tác trong thời điểm Nguyễn Trãi về ở ẩn tại quê nhà Côn Sơn. Sau một thời gian cống hiến hết mình cho nhân dân, chứng kiến chốn quan trường đầy rẫy bất công, ngang trái, Nguyễn Trãi đã quyết định cáo quan về ở ẩn. Đây cũng là thời điểm nhà thơ có nhiều cơ hội để chiêm nghiệm trước cuộc đời, thời cuộc, lòng người.
Hai câu đầu tiên: “Đủng đỉnh ….chim bay” gợi dáng vẻ tư thế của nhà thơ trước thiên nhiên. Đó là tư thế của một kẻ an nhàn, thư thái trước thời cuộc. Từ láy đủng đỉnh được đảo lên đầu câu gợi dáng vẻ thong dong, tự tại của con người. Giữa một buổi chiều hôm trên quê nhà nhà thơ như lắng lại để ngắm khung cảnh nơi đây với bao vẻ đẹp bình dị, yên ả. Đây cũng là thời gian nhà thơ được trút bỏ hết tất cả những toan tính tầm thường chốn quan trường để sống đúng với những gì mà Người tâm niệm.
Bốn câu thơ tiếp theo: “non cao non thấp….nhẫn nay” là những suy nghĩ của Nguyễn Trãi về sự vận động của thiên nhiên và cuộc đời. Phép đối được sử dụng triệt để trong các cặp câu này. Đó là đối giữa non cao, non thấp với cây cứng, cây mềm; mây thuộc với gió hay; nước mấy trăm thu với nguyệt bao nhiêu kiếp; còn vậy và nhẫn nay. Phép đối có tác dụng nhấn mạnh sự vật hiện tượng thiên nhiên như thế nào thì chúng ta đều có thể biết được. Duy chỉ có một thứ mà không ai có thể biết được chính là lòng người:
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
Bui lòng người cực hiểm thay
Quả đúng là như vậy, sự vật thiên nhiên thì mọi thứ đều rõ ràng, không có gì dấu giếm như non cao, non thấp thì mây biết; cây cứng, cây mềm thì gió hay. Duy chỉ có lòng người vô cùng thâm sâu, khó lường, bởi lẽ “ sông sâu còn có kẻ dò/ lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”. Nhiều năm lăn lội chốn quan trường, trực tiếp phò giúp hai vị vua nhà Lê, Nguyễn Trãi đã quá quen với lòng người trong xã hội. Tâm hồn trong sạch, quyết không sống chung với những thứ đê hèn, bẩn thỉu của một bộ phận quan lại chốn quan trường nên ông đã phải cáo quan về quê. Thế nhưng thị phi vẫn không buông tha cho ông để đến nỗi phải chịu thảm án “tru di tam tộc” mãi về sau mới được vua Lê Thánh Tông minh oan.
Thế là về quê ở ẩn để tìm sự thanh sạch, an nhàn trong tâm, tưởng ngoài tâm an nhàn nhưng ẩn sâu trong tư tưởng lại không hề nhàn. Nguyễn Trãi vẫn vô cùng ghê sợ với lòng người trong xã hội thâm hiểm, khó lường. Chúng ta thấy rõ sự thất vọng, đau đớn của nhà thơ trước thời cuộc. Phải chăng cũng vì thế mà suốt nhiều năm chốn quan trường Nguyễn Trãi vẫn không thể nào “nhập cuộc” được “xã hội” đặc biệt ấy.
Mạn thuật bài 4 của Nguyễn Trãi được viết hoàn toàn bằng chữ Nôm trên nền của một thể thơ cổ. Dấu ấn của thơ Đường luật vẫn thể hiện rõ trong bố cục 8 câu: đề, thực, luận, kết, thủ pháp đối, đảo ngữ quen thuộc nhưng đã được việt hoá rõ rệt. Sự việt hoá được thể hiện rõ qua cách chọn lọc hình ảnh gần gũi, quen thuộc, bình dị. Các câu thơ lục ngôn xen vào bài thơ thất ngôn, vần nhịp, phối thanh biến hoá linh hoạt. Với bài thơ này Nguyễn Trãi đã mang đến một cuộc cách tân mạnh mẽ cho thơ Nôm của dân tộc.
Có thể nói Mạn thuật bài 4 là một trong những tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Trãi. Bài thơ là sự vận dụng tài tình ngôn ngữ dân gian nên những câu thơ đầy gợi tả, để lại dấu ấn đậm sâu trong lòng người đọc. Thông qua bài thơ chúng ta hiểu rõ hơn về vẻ đẹp cốt cách con người Nguyễn Trãi: một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên; nặng lòng với thời cuộc.
Nguyễn Trãi là một trong những danh nhân văn hóa thế giới, được coi là cây đại thụ trong lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Mặc dù cuộc đời ông đầy máu và nước mắt, nhưng ông đã vượt qua những bất hạnh đó để cống hiến hết mình cho nhân dân và nghệ thuật. Ông đã để lại nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam, trong đó có tập thơ "Quốc âm thi tập" với 254 bài thơ Nôm, thể hiện tình yêu với quê hương đất nước và tâm hồn nặng lòng với thời cuộc.
Mạn thuật bài 4 là một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Trãi, nằm trong chùm thơ Nôm của ông. Bài thơ thể hiện nỗi niềm sâu kín của nhà thơ trước cuộc đời và thời cuộc, với những hình ảnh thiên nhiên gần gũi, thân thuộc. Tập thơ này mang đến cho công chúng bình dân những hình ảnh đời thường, làng quê bình dị, là một tài sản văn hóa của Việt Nam.
Theo phần lớn các nhà nghiên cứu và sách giáo khoa, bài thơ được sáng tác trong thời gian Nguyễn Trãi đang ẩn dật tại Côn Sơn quê hương, sau khi tận tụy với dân và chứng kiến những bất công, thối nát của triều đình. Đây cũng là lúc nhà thơ có nhiều dịp chiêm nghiệm về cuộc đời, về xã hội và về bản chất con người.
Bài Mạn thuật số 4 của Nguyễn Trãi được viết toàn bộ bằng chữ Nôm trên nền thể thơ cổ. Trong bố cục bao gồm đề, thực, luận, kết, thủ pháp đối và đảo ngữ, ta vẫn có thể nhận thấy ảnh hưởng của thơ Đường. Tuy nhiên, đây là một tác phẩm đã được việt hoá rõ rệt, với sự chọn lọc cẩn thận hình ảnh quen thuộc và bình dị. Bài thơ cũng sử dụng câu thơ lục ngôn, phối thanh vần nhịp một cách linh hoạt và biến hóa.
Nhà thơ đứng giữa thiên nhiên trong tư thế thư thái và an nhàn được gợi lên bởi hai câu đầu tiên của bài thơ. Từ "đủng đỉnh" ở đầu câu cho thấy vẻ thong dong và tự tại của con người. Trong một buổi chiều yên ả trên quê hương, nhà thơ cảm nhận được vẻ đẹp bình dị và được giải thoát khỏi toan tính của cuộc sống hiện đại. Bốn câu thơ tiếp theo, với phép đối, thể hiện suy nghĩ của Nguyễn Trãi về sự vận động của thiên nhiên và cuộc đời. Nhưng trong tất cả những gì hiểu biết được về thiên nhiên, lòng người vẫn là điều khó lường nhất. Nhà thơ đáp lại sự thật này bằng những dòng thơ đầy thất vọng và đau đớn. Sau nhiều năm trải qua chốn quan trường, Nguyễn Trãi không thể nhập cuộc vào xã hội đặc biệt ấy và buộc phải rời bỏ để tìm sự thanh sạch và an nhàn trong tâm hồn. Tuy nhiên, lòng người vẫn là một điều không thể lường trước và đôi khi mang đến cho chúng ta những thất vọng và đau đớn.
Mạn thuật bài 4 là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Bài thơ thể hiện sự tài tình của ông trong việc sử dụng ngôn ngữ dân gian để gợi lên những hình ảnh sắc nét, để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm trí người đọc. Bằng bài thơ này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của Nguyễn Trãi đối với vẻ đẹp thiên nhiên và lòng nặng trĩu trước thời cuộc. Bài thơ là một cách tân mạnh mẽ cho thơ Nôm của dân tộc.
-----------------------------------------
Trên đây Toploigiai đã cùng các bạn Phân tích bài thơ Mạn thuật bài 4. Chúng tôi hi vọng các bạn đã có kiến thức hữu ích khi đọc bài viết này, chúc các bạn học tốt.