Câu trả lời chính xác nhất: Tình cảm của nhân dân đối với Trương Định là: Nhân dân vô cùng biết ơn Trương Định, để thể hiện tình cảm đối với Trương Định, nhân dân ta đã lập đền thờ ông, ghi lại những chiến công của ông, lấy tên ông đặt tên cho đường phố, trường học… Bên cạnh đó, nhân dân còn suy tôn Trương Định làm “Bình Tây Đại nguyên soái”.
Để có thể hiểu hơn về câu hỏi Em hãy cho biết tình cảm của nhân dân đối với Trương Định?, Toploigiai đã mang tới bài mở rộng sau đây về Trương Định, mời các bạn cùng theo dõi.
a. Thân thế
Trương Định sinh năm 1820, tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi). Ông còn có tên là Trương Công Định hoặc Trương Trường Định, là hậu duệ dòng họ Trương khai khoa vùng Quảng Ngãi xưa. Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ uý ở Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị.
Trương Định là người đứng đầu trong việc khai hoang lập ấp và được triều đình phong cho chức Quản cơ. Khi quân Pháp xâm lược, ông đã cùng nhân dân đứng lên khởi nghĩa và bao phen làm giặc khiếp sợ. Ngày 20/8/1864 ông bị thương, để không sa vào tay giặc, ông đã dùng gươm tuẫn tiết.
Sau khi mất, vợ ông - bà Trần Thị Sanh đã chôn cất ông tại thị xã Gò Công. Mộ Trương Định được xây bằng đá ong với hồ ô dước trên diện tích 67m2. Mặt bia có khắc dòng chữ "Đại Nam Phấn Dõng Đại Tướng Quân, Truy Tặng Ngũ Quân, Quận Công, Trương Định Chi Mộ". Sau bao lần bia mộ bị chính quyền Pháp đập phá, năm 1964, nhân dân đã tu bổ khang trang. Để tưởng nhớ công lao người anh hùng dân tộc năm 1972 một ngôi đình khang trang giữa một khu đất rộng, có võ ca, 2 khẩu thần công phục chế và một hồ nước rộng hơn 1.000m2 tại xã Gia Thuận, huyện Gò Công Đông. Để che mắt địch, nhân dân gọi là đình Gia Thuận. Hàng năm, đến ngày giỗ ông (20 tháng 8 Dương lịch) nhà nào cũng lập bàn thờ ngoài trời và làm lễ tại đình. Lễ giỗ ông nay trở thành ngày hội của nhân dân trong huyện.
b. Sự nghiệp
Năm 1850, hưởng ứng chính sách khai hoang của triều đình, Trương Định đứng ra chiêu mộ khoảng 500 dân nghèo khai hoang lập ấp. Với công lao ấy, ông được triều đình Huế phong chức Quản cơ, hàm Lục phẩm, nên người đương thời thường gọi ông là Quản Định.
Năm 1859, khi Pháp đưa quân chiếm thành Gia Định, Trương Định đem nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều để ngăn chặn. Trong quá trình lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp, Trương Định đã đánh thắng giặc Pháp ở mặt trận Thị Nghè, Cây mai… Năm 1860, dưới quyền của Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương, Trương Định tham gia giữ đồn Kỳ Hoà, được triều đình phong chức Phó lãnh binh. Sau khi đồn Kỳ Hoà thất thủ, ông cùng nghĩa binh rút về Gò Công xây dựng căn cứ kháng chiến chống Pháp. Trương Định đã tổ chức nhiều trận phục kích địch ở Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn làm cho Pháp bị tổn thất lực lượng rất nhiều.
Tháng 4/1861, thực dân Pháp chiếm thành Định Tường, tháng 11/1861 chiếm thành Biên Hòa và đến tháng 3/1862, giặc Pháp tấn công chiếm thành Vĩnh Long. Triều đình ký hòa ước "Nhâm Tuất" vào ngày 5/6/1862 cắt 3 tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường cho Pháp. Tiếp đó, triều đình ra lệnh cho Trương Định bãi binh, phong làm Lãnh binh An Hà, buộc phải bãi binh ở Tân Hoà và gấp rút nhận chức mới ở An Giang.
Nhưng lòng dân và nghĩa quân không chịu, trong lúc đang lưỡng lự giữa ý dân và lệnh vua chưa biết ngã về đâu thì Trương Định nhận được thư của nghĩa hào huyện Tân Long (Chợ Lớn), tỏ ý muốn cử ông làm chủ soái 3 tỉnh để giết giặc. Cảm kích sự tín nhiệm của những người yêu nước và nhân dân, ông đã khước từ lệnh của triều đình và nhận danh hiệu "Bình Tây Đại Nguyên Soái" do nhân dân phong, tiếp tục cuộc chiến đấu chống giặc Pháp.
Tháng 2 năm 1863, địch tổng công kích đại bản doanh Trương Định ở Gò Công. Cuộc chiến đấu đã diễ ra vô cùng ác liệt trong ba ngày liền. Hai phó tướng của ông là Đặng Kim Chung và Lưu Bảo Đường đều tử trận.
Nghĩa quân yếu thế phải rút về Phước Lộc, dựa vào khu rừng Sat (gần biển) để tiếp tục chống giặc. Ở đây, nghĩa quân còn chống cự với Pháp nhiều lần và kéo dài cuộc chiến đấu hơn 2 năm.
Ngày 20 tháng 8 năm 1864, trong một trận chiến đấu quyết tử với giặc, ông bị bắn gẫy xương sống. Không để rơi vào tay giặc, Trương Định đã rút gươm tự sát để bảo tồn khí tiết khi tuổi đời mới 44 tuổi. Sự hy sinh của ông là tổn thất lớn đối với phong trào kháng chiến chống Pháp của nghĩa quân và nhân dân ta lúc bấy giờ.
Trong suốt những năm từ 1861 đến tháng 8 năm 1864, nghĩa quân của Trương Định đã làm cho quân Pháp khiếp sợ với nhiều chiến thắng ở Gò Công, Rạch Giá, Quý Sơn, Tân An và nhiều vùng khác ở khắp tỉnh miền Đông. Ngay cả Vial- một quan cai trị cao cấp của Pháp thời ấy đã gọi Trương Định là “Nhà đại lãnh tụ của quân khởi nghĩa”. Còn đối với nhân dân, đặc biệt là nhân dân Gò Công, Nam Bộ xem Trương Định là người anh hùng dân tộc.
Nhân dân, nghĩa quân, sĩ phu tất cả các nơi đều hết sức thương tiếc và coi ông là một vị anh hùng trong sự nghiệp chống Pháp thời kì đầu xâm lược nước ta.
>>> Tham khảo: Tóm tắt khởi nghĩa Trương Định
Nhân dân vô cùng biết ơn Trương Định, để thể hiện tình cảm đối với Trương Định, nhân dân ta đã lập đền thờ ông, ghi lại những chiến công của ông, lấy tên ông đặt tên cho đường phố, trường học… Bên cạnh đó, nhân dân còn suy tôn Trương Định làm “Bình Tây Đại nguyên soái”.
>>> Tham khảo: Trương Định đã làm gì để đáp lại lòng tin yêu của nhân dân
- Sau khi Trương Định chết, bà Sanh kêu thợ xây mộ cho người chồng quang vinh của mình bằng đá granit; vẫn cho khắc văn bia gắn lên mộ ca ngợi Trương Định: “… dòng dõi trâm anh, hành động anh hùng, quyết sống chết nơi sa trường, ngàn năm ngưỡng mộ…” và các bức hoành, trong đó có bức ghi: “Vạn cổ phương danh” (Tiếng thơm muôn thuở). Việc này, Nha Nội chính Pháp biết, liền ra lệnh đục bỏ hết các chữ Nho khắc trên lăng mộ Trương Định một lần nữa.
- Năm 1945, nhân dân trùng tu và bia được khắc lại “Đại Nam Thần Dõng, Đại Tướng Quân, Truy Tặng Ngũ Quân, Ngũ Quận Công, Trương Công Định Chi Mộ” và kế bên là dòng chữ nhỏ “Tốt Ư Giáp Tý, Thất Nguyệt Thập Bát Nhật” (tức chết ngày 20/8/1864) và một bên đề Trần Thị Sanh Lập thạch. Bia cuối mộ cũng có mái che trên bia khắc hai chữ “Trung Nghĩa”.
Trước mộ có đôi câu liễng:
“Sơn Hà Thu Chính Khí
Nhật Nguyệt Chiếu Đan Tâm”
(Núi Sông Thu Chính Khí
Nhật Nguyệt Chói Lòng Son)
- Không nguy nga như những lăng mộ khác vì chính sách phản dân tộc của kẻ xâm lược, thế nhưng ngôi mộ nói riêng và khu di tích nói chung là minh chứng cho sự kính trọng và ngưỡng mộ công đức của nhân dân địa phương đối với người anh hùng quả cảm - Trương Định.
- Di tích lăng mộ Trương Định là địa điểm lưu giữ nét đẹp văn hóa và lịch sử, đồng thời là nơi để thế hệ tiếp bước thể hiện tấm lòng thành của mình với bậc cha ông đã hi sinh thân mình bảo vệ quê hương.
-----------------------------
Trên đây là bài tìm hiểu của Toploigiai về câu hỏi Em hãy cho biết tình cảm của nhân dân đối với Trương Định. Hi vọng thông qua bài tìm hiểu trên, Toploigiai có thể giúp các bạn hiểu rõ hơn về tình cảm của nhân dân đối với Trương Định và những công lao to lớn của ông.