logo

Cảm nhận khổ 4 bài thơ Nhớ rừng (Dàn ý + 2 mẫu)

Hướng dẫn Cảm nhận khổ 4 bài thơ Nhớ rừng giúp các em học sinh lớp 8 tham khảo, tích lũy vốn từ để thể hiện nỗi niềm da diết nhất của con hổ. 


Dàn ý cảm nhận khổ 4 bài thơ Nhớ rừng

Cảm nhận khổ 4 bài thơ Nhớ rừng (Dàn ý + 2 mẫu) (ngắn gọn, hay nhất)

1. Mở bài

Giới thiệu khổ thơ thứ 4 (khổ cuối) bài thơ Nhớ rừng: Bài thơ “Nhớ rừng” của nhà thơ Thế Lữ đã mượn lời của con hổ trong vườn bách thú để nói lên tâm sự thầm kín của mình. Nổi bật trong bài thơ là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau, đó là cảnh con hổ trong vườn bách thú (khổ 1 và khổ 4), cảnh con hổ ở nơi rừng xưa (khổ 2 và khổ 3). Tuy nhiên để thấy được nỗi niềm da diết nhất trong tâm sự của vị chúa sơn lâm phải là khổ thơ cuối cùng

2. Thân bài

a. Giải thích ý kiến:

- Hoài Thanh đề cập đến nội dung cảm xúc mãnh liệt tương ứng với một hình thức thể hiện khoáng đạt, linh hoạt.

- Từ đó ông đánh giá tài nghệ của Thế Lữ trong việc “điều khiển đội quân Việt ngữ”.

b. Chứng minh ý kiến của Hoài Thanh: ý kiến đó được thể hiện ở rõ những khía cạnh:

- Cảm xúc phong phú, mãnh liệt

- Sự mãnh liệt của cảm xúc thể hiện qua:

+ Giọng thơ sôi nổi, da diết và hùng tráng với nhịp điệu linh hoạt

+ Mạch thơ cuồn cuộn, dạt dào.

+ Hình ảnh thơ rực rỡ giàu tính tạo hình, biểu cảm với những so sánh và ẩn dụ táo bạo.

+ Từ ngữ phong phú được sử dụng rất ấn tượng, đắc địa.

3. Kết bài

Tóm lại, "Nhớ rừng" là một "khúc trường ca dữ dội" thể hiện tâm trạng vĩ đại của chúa sơn lâm đồng thời là một tác phẩm hội họa hoành tráng, kì vĩ làm hằn lên mặt bằng câu chữ hình tượng vị "chúa tể cả muôn loài".


Cảm nhận về khổ thơ thứ 4 bài Nhớ rừng - Bài mẫu 1

      Bài thơ “Nhớ rừng” của nhà thơ Thế Lữ đã mượn lời của con hổ trong vườn bách thú để nói lên tâm sự thầm kín của mình. Nổi bật trong bài thơ là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau, đó là cảnh con hổ trong vườn bách thú (khổ 1 và khổ 4), cảnh con hổ ở nơi rừng xưa (khổ 2 và khổ 3). Tuy nhiên để thấy được nỗi niềm da diết nhất trong tâm sự của vị chúa sơn lâm phải là khổ thơ cuối cùng.

      Với giọng thơ da diết, nhà thơ đã đúc kết nỗi niềm của vị chúa tể rừng xanh bị sa cơ thất thế trong khổ thơ cuối cùng:

“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!…

Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”

      Từng câu từng chữ trong đoạn thơ đã phản ảnh rất thành công nỗi bất bình sâu sắc và niềm khát khao tự do mãnh liệt của con hổ trước thực tại tù hãm, giam cầm ngột ngạt. Có thể nói, bút pháp khoa trương của nhà thơ đã đạt tới mức thần diệu, ta cảm nhận con hổ chính là một con người thực thụ. Trong hoàn cảnh giam cầm, bế tắc con hổ chỉ còn biết gửi hồn mình về với chốn núi rừng đại ngàn, gửi về chốn nước non hùng vĩ, nơi giang sơn xưa kia của giống hùm thiêng ngự trị:

“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!

Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị”

      Tiếng than gửi tới núi rừng chính là lời nhắn nhủ cuối cùng, xác nhận một hiện thực phũ phàng rằng giang sơn của nó cũng sẽ là nơi mà con hổ không bao giờ còn được nhìn thấy, trở về và “vùng vẫy ở trong đó nữa, còn gì đau xót hơn khi bắt hổ phải lìa rừng, bắt cá phải lìa sông.

“Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,

Nơi ta không còn được thấy bao giờ!”

      Mặc dù căm phẫn với thực tại nhưng không thể thoát khỏi sự giam cầm xiềng xích, trong những tháng ngày nhạt nhẽo, vô vị và ngao ngán, vị chúa tể sơn lâm đành buông xuôi và tự an ủi mình, chỉ còn biết hồi tưởng về những giấc mộng ngàn to lớn:

“Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn”

      Nỗi buồn về thực tại đã làm tê tái tâm hồn, từ đáy lòng, con hổ thốt lên tiếng than ai oán: “Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”. Có thể thấy, tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam, đặc biệt là các thanh niên trí thức yêu nước lúc bấy giờ. Chúng ta đang phải sống trong cảnh nô lệ, tù hãm, ôm trong lòng nỗi căm hờn mất nước, mất tự do và hoài niệm về thời oanh liệt của lịch sử nước nhà với biết bao chiến công chống giặc ngoại xâm lừng danh khắp cõi.

      Tác giả Thế Lữ đã mượn lời của con hổ, nói lên một cách đầy đủ và sâu sắc nỗi u uất của thế hệ thanh niên trí thức Việt Nam đương thời. Đó là sự thức tỉnh trong ý thức cá nhân, đồng thời là niềm bất mãn, khinh ghét với thực tại nô lệ bất công. Đọc bài thơ và đặc biệt là khổ thơ cuối, ta cảm nhận được tiếng than và nỗi lòng của người dân đau khổ trong thân phận nô lệ, cũng như một khát vọng to lớn được trở về với quá khứ, được sống tự do và được là chính mình.


Cảm nhận về khổ thơ thứ 4 bài Nhớ rừng - Bài mẫu 2

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ,

Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị,

Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,

Nơi ta không còn được thấy bao giờ!

Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn

Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

      Nhà thơ phản ánh rất thành công nỗi bất bình sâu sắc và niềm khao khát tự do mãnh liệt của chúa sơn lâm trước thực tại tù túng, ngột ngạt. Bút pháp khoa trương của Thế Lữ đã đạt tới độ thần diệu. Trong cảnh giam cầm, hổ chỉ còn biết gửi hồn về chốn nước non hùng vĩ, giang sơn của giống hầm thiêng ngự trị tự ngàn xưa. Bất bình với hiện tại nhưng không thể thoát khỏi xích xiềng nô lệ vị chúa tể sơn lâm đầy uy vũ ngày nào giờ đành buông xuôi, tự an ủi mình bằng những giấc mộng ngàn to lớn trong quãng đời tù túng còn lại. Một nỗi buồn tê tái thấm đẫm tâm hồn. Than ôi! Quá khứ hào hùng oanh liệt giờ chỉ còn hiện lên trong giấc mộng! Tự đáy lòng vị chúa tể rừng xanh bật thốt lên tiếng than ai oán: Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

      Tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam đang sống trong cảnh nô lệ bị nhục nhằn tù hãm, cũng ngậm một khối căm hờn và tiếc nhớ khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử. Chính vì động đến chỗ sâu thẳm của lòng người nên bài thơ vừa ra đời đã được công chúng nồng nhiệt đón nhận.

      Tác giả mượn lời con hổ bị nhốt chặt trong cũi sắt để nói lên một cách đầy đủ, sâu sắc tâm trạng u uất của thế hệ thanh niên trí thức Tây học vừa thức tỉnh ý thức cá nhân, vô cùng bất mãn và khinh ghét thực tại bất công, ngột ngạt của xã hội đương thời. Họ muốn phá tung xiềng xích nô lệ để "cái tôi" tự do được khẳng định và phát triển. Nhiều người đọc bài thơ Nhớ rừng, cảm thấy tác giả đã nói giùm họ nỗi đau khổ của thân phận nô lệ. Về mặt nào đó, có thể coi đây là một bài thơ yêu nước, tiếp nối mạch thơ trữ tình yêu nước trong văn chương hợp pháp đầu thế kỉ XX.

      Thế Lữ đã chọn được một hình ảnh độc đáo, thích hợp với việc thể hiện chủ đề bài thơ. Con vật oai hùng được coi là chúa tể sơn lâm, một thời oanh liệt, huy hoàng ở chốn nước non hùng vĩ nay bị giam cầm tù hãm tượng trưng cho người anh hùng chiến bại. Cảnh đại ngàn hoang vu tượng trưng cho thế giới tự do rộng lớn. Với hình ảnh chứa đựng ý nghĩa thâm thúy đó, Thế Lữ rất thuận lợi trong việc gửi gắm tâm sự của mình trước thời cuộc qua bài thơ. Ngôn ngữ thơ đạt tới độ điêu luyện, tinh tế, nhạc điệu du dương, lúc sôi nổi hào hùng, lúc trầm lắng bi thiết, thể hiện thành công nội dung tư tưởng của bài thơ.

      Bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, thi hứng cuồn cuộn tuôn trào dưới ngòi bút thi nhân. Đây là đặc điểm tiêu biểu của bút pháp lãng mạn và cũng là yếu tố cốt lõi làm nên sức lôi cuốn mạnh mẽ, chi phối các yếu tố nghệ thuật khác của bài thơ. Bài thơ Nhớ rừng sống mãi trong lòng người đọc. Nhắc đến Thế Lữ, người ta nhớ tới Nhớ rừng. Là thi sĩ, chỉ cần điều đó cũng đủ sung sướng, hạnh phúc và mãn nguyện.

---/---

Như vậy, Top lời giải đã vừa cung cấp những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay Cảm nhận khổ 4 bài thơ Nhớ rừng (Dàn ý + 2 mẫu) để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn !

icon-date
Xuất bản : 20/03/2021 - Cập nhật : 21/03/2021