Tổng hợp dàn ý, Top 20 Phân tích Việt Bắc khổ 3 học sinh giỏi hay nhất, đạt điểm cao, giúp các em có thêm tư liệu tham khảo áp dụng trong các bài kiểm tra.
Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Tố Hữu, bài thơ Việt Bắc và dẫn dắt vào phần giới thiệu khổ thơ thứ 3.
Thân bài
- Điệp từ “nhớ” nhấn mạnh vào tình cảm, cảm xúc của người ở lại và người ra đi.
- Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc:
+ “Mưa nguồn suối lũ”: đất trời vần vũ, chìm trong mưa gió bão bùng, sự khắc nghiệt của mùa mưa Việt Bắc khiến cuộc sống trong rừng thêm khó khăn.
+ “Những mây cùng mù”: biện pháp chêm xen nhấn mạnh bầu trời u ám nặng nề, gian khổ đè nặng, ẩn dụ những ngày đầu khó khăn của kháng chiến
+ “Miếng cơm chấm muối”: vừa tả thực vừa ước lệch chỉ những thiếu thốn mọi mặt ở chiến khu.
+ Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xôn xao vì tiếc nuối nhớ nhung. Biện pháp hoán dụ “rừng núi” chỉ người Việt Bắc, nỗi nhớ thêm kín đáo, đại từ “ai” phong cách dân gian mộc mạc
+ Người Việt Bắc nhắc đến kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về mảnh đất anh hùng.
=> Hình thức đối thoại, đoạn thơ diễn tả tình cảm người Việt Bắc dành cho cán bộ chiến sĩ thắm thiết, mặn nồng.
Kết bài
Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của khổ thơ thứ 3.
>>> Tham khảo: Dàn ý phân tích khổ thơ 3 bài thơ Việt Bắc
Có thể nói bài thơ Việt Bắc là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất khẳng định vị trí của Tố Hữu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc không chỉ là bản hùng ca về cuộc kháng chiến vĩ đại, gian khổ và anh dũng của cả dân tộc mà còn là bản tình ca ngợi ca tình cảm sâu nặng giữa cán bộ với quần chúng nhân dân, giữa đồng bào hai miền. với miền khác. người miền xuôi. Nỗi niềm sâu lắng ấy được thể hiện rất cụ thể và sinh động trong khổ thơ thứ ba.
Cả khổ thơ là lời của người ở lại, những câu thơ chứa đựng tình cảm, nỗi nhớ của người ở lại với người ra đi hay của nhân dân Việt Bắc với người cán bộ cách mạng. Trong bốn dòng đầu của bài thơ, người ở lại tái hiện những kỷ niệm của quá khứ, những kỷ niệm của một thời đã qua:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Những người ở lại kể về những tháng ngày gian khổ khi phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt của núi rừng Việt Bắc. “Mưa nguồn, lũ về” là hiện tượng thiên nhiên đặc trưng của miền núi, mưa xối xả, mưa bất chợt ở thượng nguồn thường gây ra lũ quét, lũ ống, lũ ống. Hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt này chỉ có ở vùng núi cao, nó giống như một tai họa luôn rình rập, đe dọa tính mạng con người. Ngoài ra, ở đây có “mây”, người dân miền núi sống ở độ cao nên mây và sương mù dày đặc tạo nên không gian lạnh lẽo và cản trở nhiều hoạt động, cản trở tầm nhìn của người dân. Cả hai hiện tượng trên đều là những trở ngại lớn đối với đồng bào miền núi cũng như đồng bào miền xuôi. Để vượt qua và thích nghi, các cán bộ đã được đồng bào trong chiến khu đùm bọc, chia sẻ. Nó trở thành kỷ niệm đẹp của họ. Những người ở lại cũng bồi hồi nhớ lại những ký ức về một thời chiến tranh khốc liệt, đau thương, sự đối lập giữa hoàn cảnh và ý chí: “miếng cơm manh áo” và “mối thù sâu nặng”. Trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, điều kiện đấu tranh đầy thử thách, thiếu thốn về vật chất, nhưng tình quân dân vẫn ý chí, đồng lòng, đoàn kết. Kẻ thù đó là giặc ngoại xâm, là nhiệm vụ cách mạng cao cả mà Đảng giao phó, không chỉ là kẻ thù của cán bộ cách mạng, mà còn là sự chung tay, đoàn kết của đồng bào các dân tộc vùng cao. quyền lực sinh ra sự thù địch. Sau khi nhắc lại những kỷ niệm mà người ở lại luôn trân quý và nhớ mãi, người ở lại bày tỏ nỗi nhớ nhung, tình cảm sâu nặng đối với người ra đi:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Ở hai câu đầu, ta thấy nỗi nhớ của người ở lại được miêu tả bằng phép hoán dụ “rừng nhớ người” tức là không chỉ người mà cây cối, núi sâu, rừng thẳm đều có chung một sự vật. nỗi nhớ của con người. “Bùi trám” và “măng” là thức ăn quen thuộc của người miền núi, nhưng theo nỗi nhớ đó, trám rụng đi, măng già đi. Bài thơ “Ba cành mai rụng, cành mai già” hiện lên nỗi nhớ nhung, trống trải, hụt hẫng, lan tỏa khắp núi rừng, ảnh hưởng đến sinh hoạt đời thường của con người. Ngoài ra, nỗi buồn còn được thể hiện qua sự đối lập của “đôi mắt xám xịt” và “sâu thẳm trong lòng người”, là sự đối lập giữa điều kiện vật chất và tình cảm, trái tim con người. Những mái tranh, vật chất sơ sài, dột nát, hiu quạnh nhưng lòng người không hề sơ sài, “phú quý” là từ lóng khẳng định sự sâu sắc, nồng nàn của tình yêu. Những hình ảnh tương phản ấy đã nhấn mạnh con người Việt Bắc tuy nghèo về vật chất, giản dị nhưng không nghèo về tình cảm, luôn dành cho người cán bộ một tình cảm sâu nặng, một lòng thủy chung. Qua những câu chuyện của những người ở lại, ta thấy được nỗi nhớ da diết, tình cảm của người dân chiến khu đối với người cán bộ cách mạng trở về là một tình cảm lớn thể hiện nội dung yêu nước trong thơ Tố Hữu. Cuối cùng, ở bốn câu thơ cuối, đó là một lời khuyên nhủ, nhắc nhở đối với những người đã khuất:
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Người ở lại căn dặn những người cách mạng phải luôn nhớ về cội nguồn, “nhớ núi” là nhớ về mảnh đất gắn liền với một thời gian khổ và anh dũng, “Nhớ thời kháng Nhật, chống Việt Minh” là nhớ về . . Buổi đầu của cuộc cách mạng đầy gian khổ, hy sinh. Có hòa bình phải mất tháng, có khó khăn mới giành được độc lập, hòa bình, người cán bộ phải luôn ghi nhớ điều đó, nhớ cội nguồn thành quả cách mạng. Đại từ “ta” được dùng ba lần trong câu thơ để chỉ người đã ra đi, có ý nhắc nhở người cán bộ phải nhìn lại mình, biết giữ gìn bản chất cách mạng trong con người mình. Chữ địa danh là tên những vùng đất bất tử, Tân Trào, Hồng Thái đều gắn liền với những sự kiện trọng đại, nơi sinh thành, nuôi dưỡng các tổ chức cách mạng và khả năng cán bộ. Bây giờ cuộc sống đổi thay, vị thế cũng đổi thay, nhưng thực tế cách mạng không bao giờ thay đổi, qua những lời căn dặn, nhắc nhở mà người ở lại muốn người ra đi luôn khắc sâu lòng biết ơn cội nguồn chỉ đường. định mệnh. Đọc xong khổ thơ thứ ba, em cảm nhận được sức dân tộc chủ nghĩa. Thể thơ lục bát với nhịp điệu đều đặn góp phần thể hiện nỗi nhớ tha thiết, sự liên kết giữa vần – vần, các vần liền nhau góp phần trình bày nỗi nhớ bất tận, bộc lộ tình cảm thiết tha không dễ. tách biệt. Tác giả dùng đại từ “tôi” để chỉ cả hai nhân vật, có khi “tôi” là từ chỉ người ở lại, có khi là lời gọi người ra đi, cách dùng đó nhấn mạnh sự liên kết bền chặt. giữa những người ở lại và những người đi. Tuy nhiên, tác giả cũng liên kết nhiều giải pháp tu từ, phúng dụ “anh đi rồi”, “anh về rồi” nhấn mạnh sự thật về một cuộc chia ly, “anh nhớ” và “nhớ” nhấn mạnh sự lo lắng, mức độ lo lắng. sự day dứt của nỗi nhớ. Những từ ngữ giúp khắc sâu cảm xúc, những từ ngữ hoán dụ, tương phản giúp nhấn mạnh những kỉ niệm, kỉ niệm được người ở lại lưu giữ, nâng niu và cuối cùng là từ ngữ chỉ địa danh giúp người đọc khắc sâu nguồn cội. nguồn cách mạng.
Chính nội dung cách mạng và hình thức, tiếng nói của thể thơ dân tộc đã làm cho khổ thơ thứ ba nói riêng và bài thơ Việt Bắc nói chung của Tố Hữu có tác dụng và sâu sắc. đến suy nghĩ và cảm xúc của người đọc. Nhắc về tình hữu nghị mười lăm năm của dân tộc, hướng tới tương lai tươi sáng, gợi về khát vọng chung thủy.
Tố Hữu là một nhà thơ lớn của dân tộc, cuộc đời ông gắn bó với cách mạng, thơ văn ông gắn bó với những sự kiện lịch sử hào hùng của kháng chiến. Bởi thế mà khi nhắc đến Tố Hữu người ta thường nghĩ về một nhà thơ yêu nước, giàu nhiệt huyết và lý tưởng. Điểm độc đáo trong thơ Tố Hữu là thơ ông mang phong cách trữ tình, chính trị.
Bài thơ Việt Bắc là một trong những thành công lớn trong sự nghiệp thơ văn yêu nước của Tố Hữu. Tác phẩm được ra đời vào năm 1954, sau ngày miền Bắc giải phóng, hòa bình lập lại, nhà thơ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ trở về miền xuôi, tạm biệt nơi đại ngàn rừng núi. Với thể thơ dân tộc cùng lối viết nhẹ nhàng mà da diết ân tình, Việt Bắc như một khúc tâm tình đầy thương nhớ của người cách mạng với con người và núi rừng Việt Bắc. Những tình cảm thấy thiết mà nhân dân dành cho cán bộ, của cán bộ dành cho nhân dân như hòa quyện vào từng lời thơ. 12 câu thơ đầu của khổ 3 tác phẩm đã thể hiện sâu sắc nhất yêu thương ấy.
"Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mưa
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai"
Lối xưng hô " mình- ta " thường được dùng nhiều trong ca dao, dân ca Việt để thể hiện sự thắm thiết trong tình cảm của con người. Ở đây, tác giả cũng đã vận dụng lối xưng hô ấy vào bài thơ tạo sức gần gũi, ân tình của người đi, kẻ ở. Tiếng "mình" cất lên là chứa chan sự yêu thương trong đó, thật quen thuộc, thật gần gũi biết bao. Những câu hỏi vờ như có chút trách móc lại vô cùng ngọt ngào pha chút phân vân, lo lắng của lứa đôi: Không biết mình đi rồi có còn nhớ những ngày xưa? Mình có nhớ chăng những ngày cùng nhân dân trải qua vất vả, khắc nghiệt của thời tiết, thiên nhiên để chiến đấu? Mình có nhớ nơi chiến khu yêu dấu vẫn còn đó bóng dáng con người nơi đây đợi chờ, quyến luyến hay những bữa cơm chấm muối cùng nhau trong gian khó? Nhịp thơ 2/4; 2/2/4 nhịp nhàng, đều đặn lại càng thể hiện được sự thiết tha trong lòng người ở lại. Nỗi nhớ thương người cách mạng càng đong đầy thì những kỉ niệm của buổi năm xưa càng trào dâng xúc động, bằng biện pháp liệt kê quen thuộc trong nghệ thuật, tác giả đã gợi lại những câu chuyện hành quân cùng nhân dân Việt Bắc. Đó là nơi tiền tuyến mây mù, suối lũ, đầy rẫy những thách thức, hiểm nguy dân cùng người chiến đấu, chẳng hề sợ hãi, chùn chân. Đó là những bữa cơm nghèo san sẻ cho nhau miếng cơm chấm muối đầy ấm áp. Đó là mối thù chung của nhân dân và cán bộ, là mối thù chung của dân tộc khi lũ giặc xâm lăng tàn nhẫn đến đáng sợ. Gánh nặng chung trên vai là gánh nặng quân thù, cách mạng cùng nhân dân hòa trong tinh thần chung, dũng cảm bước vào cuộc chiến đấu để giết giặc, cứu nước. Trong từng tiếng thơ, ta không thấy sự than vãn hay mệt mỏi trước khó khăn vất vả mà trái lại ta cảm nhận được cảm xúc tự hào của người ở lại. Họ tự hào vì những tháng ngày anh dũng chiến chiến, về những hành trình vượt khó, mình và ta cùng sát cánh, cùng đồng hành bên nhau đánh tan quân thù, giành lại hoà bình, tự do cho dân tộc.
Sau khi gợi lại những kỉ niệm ngày nào, nhân dân tiếp tục bày tỏ những tình cảm chân thành, nỗi lưu luyến với người đi:
"Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già"
Lối xưng hô "mình", "ai" thật độc đáo, chỉ hai mà một, đó là hình ảnh những người cách mạng đã về xuôi. " Rừng núi" là cách nói hoán dụ để chỉ những người dân nơi chiến khu Việt Bắc. Các cán bộ đã trở về nơi thủ đô của phồn hoa gió mát, còn nhớ chăng chốn núi rừng đại ngàn nắng gió không? Những với người ở lại vẫn sắt son nỗi "nhớ" thiết tha, nỗi nhớ tận sâu trong lòng, thấm trong từng cảnh vật nơi đây: rừng núi, trám bùi, măng mai...Cảm xúc buồn bã vì phải chia xa mà nhân dân dành cho chiến sĩ thật chân thành, thắm thiết, đầy xúc động.
Nỗi nhớ càng trào dâng khi nghĩ về người đi, nhân dân không thể nào nguôi nỗi lo sợ rằng ai đó sẽ lãng quên đi "người ở lại" mà cất tiếng hỏi han:
"Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh."
Tác giả chọn hình ảnh lau xám hắt hiu như một đặc trưng riêng của thiên nhiên Việt Bắc để hỏi về tình cảm mà người cách mạng dành cho họ. Người ra đi có còn nhớ chăng những ngôi nhà thấp thoáng sau rặng lau, thấp thoáng giữa núi rừng hùng vĩ. Người ra đi có nhớ chăng những tình cảm ấm áp, đậm đà của người ở lại ? Còn với riêng nhân dân Việt Bắc thì vẫn luôn thắm thiết một mối tình son sắt với cách mạng, với cán bộ miền xa.
Đoạn thơ kết thúc bằng việc gợi lại những sự kiện lịch sử đáng tự hào của cán bộ và nhân dân:
"Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa."
Hai câu thơ có 14 tiếng thôi nhưng "mình" chiếm đến 3 tiếng đã cho thấy được sự hoà quyện giữa nhân dân với cán bộ. Dường như không còn là sự phân biệt rạch ròi "mình", "ta" nữa mà là sự thấu hiểu, hài hoà vào nhau. Mình- người đi, mình- người ở lại, có còn nhớ chăng những nơi đã cùng nhau chiến đấu, còn nhớ chăng những địa danh nơi diễn ra những bước ngoặt kháng chiến của cách mạng như "Tân Trào"; "Hồng Thái" không ? Đó là câu hỏi nhưng cũng hàm chứa một lời nhắc nhở ân tình rằng đừng bao giờ lãng quên đi quá khứ nghĩa tình, những tình cảm thủy chung đã từng gắn bó. Đừng bao giờ quên nhắc nhở những hy sinh, mất mát đã trải qua để sống có trách nhiệm với hôm nay, không được ngủ quên trên chiến thắng, phải tập trung cảnh giác, vừa bảo vệ đất nước vừa dựng xây đời. Đừng bao giờ phản bội quá khứ hào hùng của lịch sử chúng ta.
12 câu thơ lục bát không phải là quá nhiều nhưng ghi vào lòng người biết bao tình cảm tốt đẹp, tình cảm giữa người chiến sĩ cách mạng và người đồng bào Việt Bắc thật đáng quý, đó không chỉ là tình quân dân mà còn là tình cảm gắn bó thân thương, đáng trân trọng.
Bài Việt Bắc là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng chiến chống Pháp nói chung.Có thế nói, Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca,thế hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa Cách Mạng cả nước. Điều này càng được khắc họa rõ nét hơn trong khổ thơ:
"Mình đi,có nhớ những ngày.
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?"
Việt Bắc là tác phẩm trường thiên,dài 150 dòng,được Tố Hữu viết vào tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hổ và cán bộ từ giã Thủ đô gió ngàn để về với Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình .Bao trùm đoạn thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, là nỗi nhớ da diết, tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của kẻ ở người đi - người miền ngược và người đi kháng chiến.
Mở đầu đoạn thơ là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào:
"Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mưa
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai"
Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ có nhớ, điều này gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng của người ở lại - một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết: Cán Bộ về xuôi, Cán Bộ có còn nhớ chiến khu VB nữa không ?. Để cho người ở lại hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù , câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ. Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt,khó khăn của thiên nhiên, mình và ta còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn, đầy gian khổ miếng cơm chấm muối. Hình ảnh hoán dụ mối thù nặng vai, gợi liên tưởng đến mối thù sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thời còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, mình và ta đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu điệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc,ấm no. Ngệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 - 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối, lời thơ càng thêm tha thiết.
>>> Xem thêm: Phân tích đoạn thơ trích trong bài thơ Việt Bắc "Mình đi, có nhớ những ngày..."