logo

Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu học sinh giỏi

icon_facebook

Tuyển chọn những bài Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu học sinh giỏi hay nhất. Các bài văn mẫu và dàn ý được biên soạn, tổng hợp từ các bài viết hay, xuất sắc nhất. Mời các em cùng tham khảo nhé! 


Dàn ý Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu học sinh giỏi

1. Mở bài:

- Giới thiệu bài thơ Việt Bắc và tám câu thơ đầu bài Việt Bắc.

2. Thân bài:

* Luận điểm 1: khái quát về tác giả, tác phẩm

- Tác giả Tố Hữu:

+ Ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam với tiếng thơ tự sự trữ tình.

+ Chặng đường thơ Tố Hữu luôn gắn liền với dấu ấn của lịch sử dân tộc.

+ Tập thơ tiêu biểu: Một tiếng đờn, Máu và hoa,Từ ấy

- Tác phẩm:

+ Việt Bắc là một trong những tác phẩm thơ tiêu biểu cho tiếng thơ tự sự, trữ tình của Tố Hữu.

+ Được sáng tác nhân sự kiện tháng 10/1954, Trung ương Đảng và Chính phủ dời chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội.

+ Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc phần đầu của bài thơ Việt Bắc-  tác phẩm đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

* Luận điểm 2: Phân tích tám câu đầu Việt Bắc.

- Lời tâm tình của người ở lại.

- Nỗi nhớ thời gian gắn bó giữa cán bộ và nhân dân.

+ Mười lăm năm.

+ Cặp từ nhân xưng “mình- ta” giản dị, thân thiết.

- Nỗi nhớ không gian Việt Bắc.

+ Câu hỏi tu từ.

+ Điệp từ “có nhớ, có thấy”.

+ Tính từ giàu sắc thái biểu cảm “thiết tha, mặn nồng”.

=> Gợi nhắc đạo nghĩa ân tình, thủy chung. Là những lời nhắc nhở người ra đi hãy mãi nhớ về cảnh vật, về người Việt Bắc.

- Tiếng lòng của người đi- đây cũng là những dòng độc thoại nội tâm chân tình, tha thiết.

+ Các từ láy giàu sắc thái biểu cảm: bâng khuâng, bồn chồn.

+ Hình ảnh hoán dụ độc đáo: áo chàm và hình ảnh “cầm tay” lưu luyến, bịn rịn của người đi, kẻ ở.

* Luận điểm 3: Đánh giá nội dung, nghệ thuật.

+ Sử dụng nhịp nhàng thể thơ lục bát, từ láy, hình ảnh thơ giàu sắc thái biểu cảm.

+ Đoạn thơ là lời tâm tình người đi, kẻ ở. Tình cảm thiết tha, nồng nàn được bộc lộ trực tiếp như một lời khẳng định dù chia xa cũng sẽ mãi không quên, không nguôi nhớ về cảnh cũ, người xưa của các đối tượng trữ tình.

3. Kết bài:

- Khẳng định khúc tình ca Việt Bắc trong tám câu thơ đầu nói riêng, toàn bài thơ Việt Bắc nói chung.

>>> Xem thêm: Dàn ý phân tích 8 câu thơ đầu trong bài Việt Bắc


Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu học sinh giỏi - Mẫu 1

Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu học sinh giỏi

Những ngày tháng chiến đấu chống thực dân Pháp đầy gian khổ của nhân dân ta cuối cùng cũng dành được thắng lợi vô cùng vẻ vang, huy hoàng. Để làm nên thành công đó không thể không nhắc đến đóng góp của thơ văn cổ vũ cách mạng nêu lên tinh thần đấu tranh, khí thế hừng hực của nhân dân ta. Tố Hữu chính là một nhà thơ lớn, có những tác phẩm vô cùng nổi bật ở giai đoạn này. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông nói về tình cảm khăng khít, gắn bó sâu nặng giữa quân và dân ta là bài thơ Việt Bắc. Mở đầu là 8 câu thơ nói về không gian chia tay của người đi - kẻ ở. 

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm của con người Việt Nam hiện đại. Thơ ông mang đậm chất trữ tình chính trị sâu sắc: hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân. Bên cạnh đó, ông còn là nhà thơ khéo léo trong việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật: Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…

Tập thơ Việt Bắc là một trong những sáng tác vô cùng nổi tiếng của ông. Bài thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những con người kháng chiến; ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân - dân, tiền tuyến - hậu phương, miền xuôi - ngược, cán bộ - quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,…

Mở đầu đoạn trích là khung cảnh chia tay của người ở lại và người chiến sĩ ra đi, trở về miền xuôi:

“Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

Người ở lại mở lời bắt đầu cho cuộc đối thoại giữa người đi - kẻ ở trong khung cảnh chia tay. Bao nhiêu suy tư, trăn trở của người ở lại được gửi gắm vào những câu hỏi dành cho người ra đi: liệu rằng người ra đi có nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha, mặn nồng đã qua hay không? Có nhớ về con người, thiên nhiên, căn cứ đầu não cách mạng của nơi này hay không? Chỉ với bốn câu thơ nhưng người dân Việt Bắc đã tái hiện toàn bộ những gì hai bên đã có với nhau: đó là thời gian dài đằng đẵng, là những kỉ niệm đã có cùng nhau. Tố Hữu vô cùng khéo léo khi vận dụng cách xưng hô “mình - ta” vốn được dùng trong lối đối đáp xưa vào bài thơ của mình cùng với câu hỏi tu từ, điệp từ “nhớ” càng gây ấn tượng với bạn đọc về nét giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng chân thành của con người nơi đây.

Trước tình cảm, sự trân thành của người dân Việt Bắc, người ra đi bịn rịn không nói nên lời:

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Những tính từ “tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” đã diễn tả vô cùng chính xác, chân thực tình cảm của người ra đi trước giờ phút chia tay đầy quyến luyến. Có thể thấy, bốn câu thơ là vùng đất trù phú của các biện pháp nghệ thuật. Bên cạnh việc sử dụng tính từ, Tố Hữu đã sử dụng vô cùng thành công trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật hoán dụ: mượn hình ảnh áo chàm - vật dụng quen thuộc với người nông dân để chỉ những con người lao động chất phác của mảnh đất này. Vào khoảnh khắc chia tay đầy xúc động ấy, người đi kẻ ở bịn rịn, quyến luyến không nói nên lời. Tất cả tình cảm được thể hiện qua cái cầm tay, bởi khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó đã đủ làm họ hiểu nhau, chỉ cần nhìn vào mắt nhau cũng có thể thấu hiểu tâm tư tình cảm của người còn lại. Phép im lặng (dấu “…”) cuối câu làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng và cũng để cả hai nhớ về thời gian bên nhau.

Đoạn trích nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ là những kỉ niệm trong mười lăm năm gắn bó của người chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc mà còn là tình cảm gắn bó keo sơn, trước sau như một của người đi kẻ ở. Bên cạnh đó tác giả còn thể nêu cao tầm quan trọng của chiến khu Việt Bắc đối với cách mạng và độc lập của nước nhà. Tất cả nhưng tâm tư, tình cảm này được tác giả thể hiện chân thực nhất qua thể thơ lục bát và cách xưng hộ “mình - ta” vốn quen thuộc trong dân gian và các câu hỏi tu từ, liệt kê, hoán dụ… vô cùng tinh tế và đặc sắc đã góp phần không nhỏ vào việc làm nên thành công cho tác phẩm.

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên những giá trị, ý nghĩa tốt đẹp của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.


Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu học sinh giỏi - Mẫu 2

Tố Hữu là một hồn thơ đặc biệt trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Hồn thơ ông là sự kết hợp hài hoà giữa chất chính trị trong nội dung và chất trữ tình trong nghệ thuật. Tố Hữu luôn đi cùng, đi sát với những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, nhưng bước vào trang thơ qua trái tim tinh tế, nhạy cảm của ông, những sự kiện ấy đã hóa thành cảm hứng nghệ thuật lãng mạn với giọng điệu ngọt ngào, tha thiết. “Việt Bắc” là một thành công lớn trong đời thơ Tố Hữu, thể hiện trọn vẹn những đặc điểm phong cách ấy đồng thời mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, các cơ quan Trung ương đảng và Chính phủ từ biệt căn cứ địa cách mạng Việt Bắc để trở về Hà Nội. Tám câu đầu của bài thơ đã khắc hoạ “nỗi niềm kẻ ở người đi” trong cuộc chia tay giữa cán bộ cách mạng và đồng bào miền núi thật cảm động.

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Cảm xúc chủ đạo bao trùm bốn câu thơ đầu là nỗi niềm băn khoăn da diết khôn nguôi. Đó là nỗi niềm của cuộc chia ly kẻ ở người đi, trong cuộc chia tay giữa người cán bộ cách mạng và nhân dân miền núi. Chỉ có bốn câu thơ mà xuất hiện đến hai câu hỏi tu từ kết hợp với phép điệp “mình về mình có nhớ” đã khắc hoạ nỗi nhớ triền miên, day dứt khôn nguôi và tạo ra âm hưởng triền miên, khắc khoải. Giọng điệu câu hỏi đầy trữ tình là vậy nhưng nội dung lại rất rõ ràng, hướng tới những vấn đề hết sức cụ thể. Hai câu thơ đầu tiên là câu hỏi hướng về thời gian: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Khoảng thời gian “Mười lăm năm” được nhắc tới chính là những năm tháng kháng Nhật và chống Pháp đầy gian khó. Khi ấy, Việt Bắc là căn cứ địa của cách mạng, núi rừng Việt Bắc che chở cho người chiến sĩ, đồng bào Việt Bắc đùm bọc cho người cách mạng. Đó chính là thời gian nghệ thuật quá khứ mà “ta” và “mình” từng gắn bó trong tình cảm “thiết tha mặn nồng”, khăng khít không tách rời. Chỉ một từ “ấy” được dùng đắt giá mà câu thơ dường như đã gọi về cả một khoảng thời gian xa xăm, gợi biết bao nỗi nhớ thương. Không cần liệt kê các sự kiện cụ thể, không cần kể về từng mốc thời gian, chỉ một hình ảnh “mười lăm năm ấy” thôi cũng đủ để gọi về cả một thời quá khứ gắn bó nghĩa tình giữa người đồng bào và người cách mạng. Bởi đây là lời tâm tình của chính “mình” và “ta”, chính những người đã cùng nhau trải qua năm tháng ấy nên không cần nói rõ mà như đã hiểu hết ý tình trong từng câu chữ. Cách khơi gợi đầy tinh tế ấy không chỉ gợi ra những kỷ niệm khó quên, mà còn thể hiện tình cảm gắn bó, thấu hiểu lẫn nhau giữa hai bên. Nhưng gợi về những kỷ niệm trong quá khứ không phải chỉ để nhớ, mà còn để hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”. Câu hỏi làm xao xuyến lòng người, gợi nhắc đến những câu ca dao bình dị đã in sâu trong tâm thức người Việt. “Mình” và “ta” là vốn cặp từ nhân xưng phổ biến trong câu ca dao về tình nghĩa lứa đôi ngọt ngào, nay đã được Tố Hữu vận dụng khéo léo để thể hiện mối tâm tình lúc biệt ly mà người đồng bào miền núi thể hiện với người cán bộ cách mạng. Câu hỏi vừa như có phần bùi ngùi xúc động, lại như ẩn chứa một lời nhắc nhở nhẹ nhàng  về việc “chớ quên”. Hỏi để mà nhắc, mà gợi là ký ức nghĩa tình. Chỉ thay đổi một chữ mà tình cảm trong câu hỏi thứ hai “Mình về mình có nhớ không” đã gợi một thái độ hoàn toàn khác. Câu hỏi thứ hai có phần nghiêm nghị hơn hướng về những không gian cụ thể: “Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”. Người ở lại dường như đã hình dung ra viễn cảnh khi người cán bộ trở về miền xuôi. Khi ấy, không gian xung quanh sẽ thay đổi hoàn toàn. Không còn núi rừng đại ngàn hùng vĩ, không còn thượng nguồn tuôn trào dữ dội, chỉ còn những hàng cây phẳng lặng và con sông lững lờ. Khi ấy, liệu người đi có còn nhớ về quá khứ, về nguồn cội hay không?  Câu thơ gợi ra suy ngẫm sâu xa về đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, nghĩa tình thuỷ chung. Đây cũng là triết lí về lẽ sống cao cả từng nhiều lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu. 

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Nếu như bốn câu thơ đầu là tâm cảnh của những người trong buổi chia ly thì bốn câu thơ tiếp lại khắc họa ngoại cảnh, miêu tả trọn vẹn khung cảnh của cuộc chia tay. Đó là một cuộc chia tay bịn rịn với những lời từ biệt (“tiếng ai”),  những bước chân phân vân nửa ở nửa đi không dứt khoát (“bồn chồn bước đi”), với màu áo chàm đơn sơ giản dị đến mủi lòng (“áo chàm đưa buổi phân li”) và cuối cùng là cái cầm tay bồi hồi không nói lên lời (“cầm tay nhau biết nói gì”). Bầu không khí của cuộc chia tay không hẳn là buồn thảm (không có tiếng khóc) nhưng cũng chẳng nhẹ nhàng. Cảm nhận chung được gợi lên ở bốn câu thơ là sự bâng khuâng, ngập ngừng và những cảm xúc không thể gọi tên. Đại từ phiếm chỉ “ai” đã làm cho những câu hỏi được đặt ra ở bốn câu thơ trên bỗng trở nên mơ hồ. Những câu hỏi thiết tha tình nghĩa “Mình về mình có nhớ ta/không” dường như không được đặt ra bởi một người nào cụ thể, mà chính là tiếng vọng của núi  rừng, là tiếng lòng của người ở lại đã được người ra đi thấu hiểu, lắng nghe. Gắn bó thiết tha mười lăm năm tình nghĩa, giờ đây, người đồng bào và người cán bộ đối diện mà đàm tâm, lời tâm tình không cần nói ra mà vẫn cảm được tất cả những gì “tha thiết”, khắc khoải nhất. Chẳng biết là những lời từ biệt, tâm tình ấy đến từ đâu, nhưng dường như nó vẫn văng vẳng sâu xa trong tâm hồn của người đi kẻ ở. Câu thơ tiếp theo được sử dụng liên tiếp đến hai từ láy là “bâng khuâng” (bên trong) và “bồn chồn” (bên ngoài). Nỗi niềm day dứt, nửa ở nửa về không chỉ thể hiện trong nội tâm mà còn được biểu hiện ra bằng hành động (chân bước phân vân). Bởi cuộc chia ly này có thể là cuộc chia ly mãi mãi. Kháng chiến thành công, căn cứ cách mạng phải trở lại miền xuôi. Một bước chân đi này không chỉ là rời xa vùng đất, con người cụ thể mà còn là rời xa cả một thời quá khứ, rời xa những kỷ niệm gắn bó nghĩa tình trong hoàn cảnh khó khăn. Bởi thế, những tình cảm “bâng khuâng”, không rõ trong lòng đã hoá thành những bước đi ngập ngừng, lưu luyến. Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” vừa gợi ra màu áo đặc trưng của người miền núi, vừa gợi ra cái giản dị, đơn sơ, mộc mạc trong tâm hồn họ. Những người đồng bào đã một thời hết lòng cưu mang, che chở cho cán bộ chiến sĩ, nay lại xót xa đưa tiễn buổi chia ly. Kẻ ở người đi, có lẽ người phải ở lại để chứng kiến sự ra đi là những người nhiều cảm xúc hơn cả. Hình ảnh cái nắm tay trong câu thơ cuối cùng thật cảm động:

“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Những cảm xúc không tên trong lòng người đã hoá thành cái nắm tay thật chặt. Nói sao cho hết nghĩa tình những năm kháng chiến, nói sao cho hết tâm tình kẻ ở người đi. Thật khó có ngôn từ nào có thể diễn tả cảm xúc, tâm trạng của những người đã gắn bó với nhau trong hành trình gian khổ nhất của dân tộc, nay lại phải chia xa. Bởi thế, nên chẳng “biết nói gì”, tất cả tâm tư, tình cảm họ gửi vào cái “cầm tay” đầy tình nghĩa. Như thế, là không nói mà cũng là nói rất nhiều. Họ không giao tiếp với nhau bằng lời nói thông thường mà đã trở thành tâm giao, tri âm tri kỷ. Hình ảnh cái nắm tay đã khái quát thật cảm động tình cảm gắn bó, cảm xúc bùi ngùi giữa người đồng bào miền núi và người cán bộ cách mạng.

Với thể thơ lục bát truyền thống, đại từ xưng hô “mình – ta” đặc trưng ca dao và âm điệu thiết tha, tâm tình, tám câu thơ đầu của bài thơ “Việt Bắc” đã diễn tả thật cảm động nghĩa tình sâu nặng trong buổi chia ly. Một sự kiện lịch sử trọng đại (căn cứ cách mạng trở về miền xuôi sau chiến thắng Điện Biên Phủ) đã được Tố Hữu cảm nhận đầy chất trữ tình, kết hợp với cội nguồn văn hoá truyền thống dân tộc đã mang lại cho đoạn thơ cảm hứng trữ tình – chính trị độc đáo.

Bài thơ “Việt Bắc” nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng quả thực là một thành công nghệ thuật lớn của nhà thơ Tố Hữu. Tố Hữu mãi xứng đáng là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam, là người nối tiếp mạch nguồn truyền thống văn hoá dân tộc trong thời đại mới

(Xem thêm mẫu kết bài khác)

>>> Tham khảo: 

- Phân tích 20 câu đầu bài Việt Bắc học sinh giỏi

- Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc

icon-date
Xuất bản : 20/05/2022 - Cập nhật : 28/12/2024

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads