logo

Nguồn gốc của ngôn ngữ

icon_facebook

Nguồn gốc ngôn ngữ và quan hệ của ngôn ngữ đối với tiến hóa của loài người là chủ đề học thuật đã được bàn luận trong nhiều thế kỷ. Mặc dù vậy, ta vẫn chưa đạt được sự thống nhất nào về nguồn gốc hay niên đại của ngôn ngữ loài người. Vậy nguồn gốc của ngôn ngữ là từ đâu? Ngôn ngữ đã xuất hiện từ khi nào và như thế nào? Hãy cùng Top lời giải tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé!


1. Một số giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ

a. Thuyết tượng thanh:

- Xuất hiện từ thời cổ đại, phát triển từ Thế kỉ VII-XIX. Theo thuyết này, ngôn ngữ nói chung và các từ riêng biệt đều do ý muốn tự giác của con người bắt chước và mô phỏng các âm thanh trong tự nhiên. Tác giả tiêu biểu là laton và Augustin thời cổ đại.

VD: trong tiếng Hi Lạp [r] âm rung gọi tên sông ngòi có đặc điểm lưu động (dòng chảy), tiếng La Tinh âm mel (mật ong) biểu thị tiếng âm thanh mền mại , ngọt ngào như bày ong làm mật…

VD 2: phổ biến là bắt chước âm thanh của cơ quan phát âm con người, mô phỏng các âm thanh do sự phát ra âm thanh đó: bình bịch (xe bình bịch), meo meo (meo), các từ tượng thanh có trong tiếng Việt ào ào, rì rầm, róc rách…

b. Thuyết cảm thán:

- Ngôn ngữ bắt nguồn từ âm thanh các trạng thái tâm lí phát l c tình cảm x c động:   vui, buồn, giận, đau đớn...Tiêu biểu như utsô Humbôn, Stăngđan…Đó là mối quan hệ giữa từ với trạng thái của con người.

c. Thuyết kêu trong lao động:

Xuất hiện thế kỉ XIX cho rằng ngôn ngữ có từ tiếng kêu trong lao động có cơ sở từ sinh hoạt lao động của con người là do hoạt động cơ năng cơ thể theo nhịp độ lao động.

d. Thuyết khế ước xã hội:

Bắt nguồn từ ý kiến nhà triết học cổ đại Đêmôcrit cuối thế kỉ XVIII và Utsô… cho rằng ngôn ngữ do con người thỏa thuận mà định ra, trong đó khế ước xã hội là khả năng đầu tiên để ngôn ngữ hình thành. Utsô cho rằng loài người trải qua 2 giai đoạn, giai đoạn đầu tự nhiên, nguồn gốc của ngôn ngữ là cảm xúc, giai đoạn sau là giai đoạn văn minh, ngôn ngữ là sản phẩm của khế ước xã hội.

e. Thuyết ngôn ngữ cử chỉ:

Ban đầu con người chưa có ngôn ngữ thành tiếng mà dùng cử chỉ, tư thế thân thể, chân tay để giao tiếp.


2. Vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ dưới ánh sáng của Thuyết lao động

a. Điều kiện nảy sinh ngôn ngữ:

- Theo các thuyết trên đều không phải cơ sở khoa học về nguồn gốc của ngôn ngữ. Theo quan điểm CN Mác - Lênin, đặc biệt, Ăng-ghen trình bày trong cuốn "phép biện chứng của tự nhiên" cho rằng: Sự xuất hiện lời nói phân tiết và ngôn ngữ nằm trong bối cảnh chung của nguồn gốc loài người, nguồn gốc tổ chức lao động xã hội và xã hội hóa tư duy dẫn đến hình thành thức.

- Theo Ăng-ghen, lao động là cơ sở cho sự ra đời của con người và ngôn ngữ loài người.

- Đầu tiên, con người sáng chế ra công cụ sản xuất và tham gia hoạt động tập thể, từ đó có phân công lao động làm nảy sinh nhu cầu phải giao tiếp nên ngôn ngữ được hình thành. Vậy, lao động tạo điều kiện phát triển bộ óc, mở rộng hiểu biết của con người; lao động XH nảy sinh nhu cầu và nội dung giao tiếp.

- Lao động, TD và ngôn ngữ đồng thời hình thành và phát triển. Trong đó, lao động tạo ra con người và những tiền đề cho sự hình thành của TD và ngôn ngữ.

- Như vậy, ngôn ngữ chỉ nảy sinh do nhu cầu con người phải  giao tiếp và hình thành  từ lao động, sinh hoạt trong lao động để trao đổi thông tin cho nhau. Cũng từ đó, tư  duy  hình thành và phát triển. Lao động quyết định nhu cầu tạo ra ngôn ngữ.

- Tóm lại: Con người, tư duy trừu tượng và ngôn ngữ ra đời một lúc dưới tác dụng của lao động. Ngôn ngữ và tư duy trừu tượng của con người là dấu hiệu phân biệt con người với con vật. Ngôn ngữ âm thanh chỉ có ở con người.

b. Tiền thân của ngôn ngữ loài người:

Mệnh đề ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động thực ra chỉ mới khẳng định điều kiện nảy sinh ngôn ngữ chứ chưa nói rõ ngôn ngữ đã nảy sinh từ cái gì. Những giải thuyết về nguồn gốc ngôn ngữ của ngôn ngữ trước Mác, nếu như không giải thích được những điều kiện tạo ra ngôn ngữ thì ít nhiều đều hướng về tiền thân của ngôn ngữ loài người. Hiển nhiên, tiền thân của ngôn ngữ không thể là tư thế của tay hay của thân thể như Marr và môn phái của ông chủ trương. Thừa nhân tư thế của tay hay của thân thể là tiền thân của ngôn ngữ là chưa có cơ sở. Lịch sử không hề biết có một xã hội loài người nào dù lạc hậu đến đâu chăng nữa lại không có ngôn ngữ thành tiếng. Nhân chủng học không hề biết có một dân tộc nhỏ bé, lạc hậu nào, dù cổ lỗ hay còn cổ lỗ hơn người châu Úc hay dân Đất lửa thế kỉ trước chẳng hạn, lại không có ngôn ngữ thành tiếng. Cho nên, giả thuyết lúc đầu con người chưa có ngôn ngữ thành tiếng và tư duy trừu tượng, muốn diễn đạt cái tư duy tiền logic đó người ta dùng ngôn ngữ cử chỉ, tức là dùng tư thế của tay, của thân thể, thậm chí của mắt để tỏ ý nhất định, nhưng những cử chỉ đó và âm thanh của ngôn ngữ không có tính chất kế thừa lịch sử nào bởi vì cử chỉ dựa vào ấn tượng thị giác còn ngữ âm dựa vào ấn tượng thính giác.

[CHUẨN NHẤT] Nguồn gốc của ngôn ngữ

- Một số người căn cứ vào sự khác nhau về bản chất và chức năng của ngôn ngữ với các âm được bắt chước, tiếng kêu trong lao động và tiếng kêu cảm thán để phủ nhận giá trị tiền thân của những thứ đó là không đúng. Người và vượn cũng khác nhau về chất nhưng vượn vẫn là tiền thân của người; chữ viết và đồ hoạ nguyên thuỷ khác nhau về chất nhưng đồ hoạ nguyên thuỷ vẫn là tiền thân của chữ viết.

- Theo chúng tôi, ngôn ngữ với tư cách là hệ thống tín hiệu thứ hai phải bắt nguồn từ hệ thống tín hiệu thứ nhất ở con người. Hệ thống tín hiệu thứ nhất là tất cả những ấn tượng, cảm giác và biểu tượng thu được từ bối cảnh tự nhiên bên ngoài thông qua những phản xạ, kích thích ở dạng mọi cảm giác: thính giác, thị giác, xúc giác… Hệ thống tín hiệu thứ nhất tiến hành giao tiếp trong phạm vi tư duy hình tượng, một mặt nó lấy hình tượng mà bộ máy cảm giác nhận được làm cái biểu hiện còn cái được biểu hiện là tư duy hình tượng. Sự giao tiếp như vậy rất đơn sơ vì nó không có tư duy trừu tượng. Nhưng dầu sao cũng vẫn có tác dụng giao tiếp. Chẳng hạn, một người nguyên thuỷ kêu lên một tiếng, những người khác lập tức xúm lại, bởi vì tiếng kêu đó làm cho người khác biết là có thức ăn… Phạm vi của hệ thống tín hiệu thứ nhất ở con người nguyên thuỷ rất rộng. Bất cứ hình tượng nào mà bộ máy cảm giác hình thành nên đều có thể trở thành "cái biểu hiện" của hệ thống tín hiệu thứ nhất. Nhưng không phải ngôn ngữ bắt nguồn từ tất cả hệ thống tín hiệu thứ nhất. Vì ngôn ngữ lấy ngữ âm làm vật kích thích vật chất, lấy khái niệm làm nội dung chính của những vật kích thích ấy, cho nên chỉ bộ phận hệ thống tín hiệu thứ nhất nào có tác dụng giao tiếp lấy âm thanh làm vật kích thích mới trở thành ngôn ngữ.

- Như vậy, có thể một phần của sự bắt chước âm thanh là nguồn gốc của một số thành phần ngôn ngữ. Nhưng phải là những âm thanh mà con người mô phỏng âm thanh do sự vật phát ra để làm tín hiệu giao tiếp. Sự bắt chước âm thanh theo cách hiểu của Platon và Augustin thời cổ đại, cũng như sự bắt chước âm thanh với tư cách là dùng đặc điểm của tư thế bộ máy phát âm để mô phỏng đặc điểm của sự vật khách quan không thể là tiền thân của ngôn ngữ. Ngay chúng ta vẫn chưa lí giải được rõ ràng những mối quan hệ tượng thanh ấy, huống hồ là người nguyên thuỷ thời xưa.

- Tương tự, những bộ phận tiếng kêu trong lao động, tiếng kêu cảm thán có tác dụng giao tiếp với tư cách là hệ thống tín hiệu thứ nhất, đều có thể trở thành những bộ phận cấu thành của ngôn ngữ sau này.

icon-date
Xuất bản : 21/05/2022 - Cập nhật : 21/05/2022

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads