logo

Đọc hiểu Nỗi oan hại chồng

Trả lời bài đọc hiểu Nỗi oan hại chồng sẽ giúp các bạn thấy được phẩm chất và số phận gì của Thị Kính nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

NỖI OAN HẠI CHỒNG

(Trích Quan Âm Thị Kính)

THIỆN SĨ: (nói sử) Nàng ơi, đã bao lâu soi kinh bóng quế (1))

Ta dùi mài đợi hội long vân (2)

Đêm nay nghe mỏi mệt tâm thần 

Mượn kỉ này ta nghỉ lưng một lát.

(Thị Kính dọn kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thiện Sĩ thiu thiu ngủ. Một lát, Thị Kính chăm chú nhìn dưới cằm chồng, băn khoăn).

THỊ KÍNH: (nói sử) Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc (3),

Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta. 

Râu làm sao một chiếc trồi ra? 

Dị hình sắc dưới cằm mọc ngược 

Khi chàng thức giấc biết làm sao được.

Nay đang cơn giấc ngủ mơ màng 

Dạ thương chồng lòng thiếp sao an

Âu dao bén, thiếp xén tày một mực. 

(Thị Kính cầm dao khâu xén chiếc râu. Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy dao kêu lên).

THIỆN SĨ: Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng!

Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường...(Sùng ông, Sùng bà cùng hốt hoảng chạy ra).

SÙNG BÀ: Làm sao đấy hở? Làm sao? 

SÙNG ÔNG: Bất thường làm sao? Việc gì ban đêm không để xóm giềng ngủ. Vợ chồng lại rầm rĩ lên như thế? 

THIỆN SĨ: (nói đếm)

Thưa cha mẹ, đêm qua con ngồi học đã khuya

Vừa chợp mắt thấy dao kia kề cổ. 

Con nói đây, có quỷ thần hai vai chứng tỏ 

Dầu thực hư đôi lẽ con chưa tường. 

SÙNG ÔNG: Hú vía! Kề cổ mày hay kẻ cổ ai hở con?

SÙNG BÀ: (gắt Sùng ông)

Thôi đi, lại còn kề cổ ai vào đây nữa?

Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à? (Dúi đầu Thị Kính ngã xuống) Úi chao! Tôi đã bảo ông mà! 

Lấy vợ cho con thì phải kén họ. Tôi đã bảo là phải kén những nơi công hầu kia mà! (Múa hát sắp chợt)

Giống phượng giống công 

Giống nhà bà đây giống phượng giống công. 

Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ. 

Chứ bây giờ bay mới lộ cái mặt ra, 

Chứ bây giờ sao chẳng mở cái mồm ra ?

THỊ KÍNH: (khóc)

Lạy cha, lạy mẹ! Cho con xin trình cha mẹ...

SÙNG BÀ: Thôi câm đi!  Lại còn dám mở mồm nữa à?

(Tiến lại phía Thiện Sĩ) Úi chao! Hú hồn hú vía cho con tôi!

Giải kiếp! Giải kiếp! (Quay lại Thị Kính)

(Nói lệch) Cả gan! Cả gan! Cái con này thật cả gan! May cho con tao sực tỉnh giấc vàng,

Tỉnh tình tinh nữa còn gì mà không chết?

Này con kia! Mày có trót say hoa đắm nguyệt 

Đã trên dâu dưới bộc hẹn hò...

THỊ KÍNH: (vật vã khóc) Giời ơi ! Mẹ ơi, oan con lắm mę ơi!

SÙNG BÀ: (nói tiếp) Mày cứ thú với bà, bà cũng thứ đi cho. 

Can chi phải dụng tình bất trắc. 

Mày ngửa mặt lên cho bà xem nào

SÙNG ỐNG: Thì mày ngửa lên cho bà ấy xem!

(Thị Kính ngửa mặt rũ rượi)

SÙNG BÀ: (nói lệch) Ôi chao ơi là mặt!

Chém bỏ băm vằm sả sích mặt! 

Gái say trai lập chí giết chồng!

THỊ KÍNH: Oan cho con lắm mẹ ơi!

Chàng học khuya mỏi mệt. 

Con thấy râu mọc ngược dưới cằm

SÙNG BÀ: Lại còn oan à?

Rõ rành rành mười mắt đều trông.

Phi mặt gái trơ như mặt thớt!

SÙNG ÔNG: Thì ra con Thị Kính này nó là gái giết chồng thật hở bà?

SÙNG BÀ: Úi giời ơi! Chồng với con! Ông chửa mở mắt được ra mà trông kia kìa (trỏ con dao dưới đất).

Lúc nào cũng rượu, lúc nào cũng say. 

Ăn nói thì lèm bèm lèm bèm... 

SÙNG ÔNG: Thì tôi biết đâu! Tôi cứ tưởng như tôi với bà ngày còn trẻ kia đấy. Tôi thì tôi đồ chừng chỉ là cái chuyện như tôi với bà cái thuở đương thì đấy thôi bà ạ.

SÙNG BÀ: (đay nghiến Sùng ông) Đương với chả thì... (kéo Sùng ông vào phản) Không biết gì thì ông ngồi chết xuống đây này!

SÙNG ÔNG: Ừ thì ngồi!

SÙNG BÀ: Này con kia ! Tam tòng tứ đức nhà mày để ở đâu hử? (nói lệch) Sao mày không sợ gươm trời búa nguyệt, 

Cả gan thay cho bụng đàn bà. 

Ngựa bất kham thôi về Bổng Báo (4)

Này, bà bảo cho mà hay này : đồng nát thì về Cầu Nôm (5) , con gái nỏ mồm thì về ở với cha, biết không ? 

Trứng rồng lại nở ra rằng 

Liu điu lại nở ra dòng liu điu.

(nói lệch) Này! Nhà bà đây cao môn lệnh tộc (6)

Mày là con nhà cua ốc

Cho nên chữ tam tòng mày ăn ở đơn sai

Chả công đâu bà đánh mắng cho hoài

Gọi Mãng tộc, phó về cho rảnh thôi ông ạ!

Ơ hay! ... Thế ông vẫn ngồi chết ở đấy à?

SÙNG ÔNG: Sao bà bảo tôi ngồi chết dí xuống đây thì tôi đừng ngồi à ?

SÙNG BÀ: Không biết gọi Mãng ông sang đây mà giao giả con Thị Kính kia đi. Để như vậy con mình có ngày chết oan vì nó đấy. Thôi ông đi đi!

SÙNG ÔNG: Ừ thì đi!

THỊ KÍNH: (với Thiện Sĩ) Oan thiếp lắm chàng ơi!

SÙNG BÀ: Thôi con vào rửa mặt mà đọc sách. Rồi đây mẹ lấy cho dăm bảy vợ, tiếc gì cái đồ sát chồng kia nữa!

THỊ KÍNH: Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!

SÙNG BÀ: Hãy còn oan à? (với Thiện Sĩ) Đi! Đi vào!
(Thị Kính chạy theo van xin, Sùng bà dúi tay ngã khuỵu xuống thì có tiếng Sùng ông nói từ ngoài cổng).

SÙNG ỐNG: Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu!

MÃNG ÔNG: Đấy, tôi biết ngay mà! Mạ già ruộng ngấu, không cắm cây mạ thì thôi, chứ đã cắm là mọc ngay cây lúa cho mà xem.

SÙNG ÔNG: Ông khoe con ông nữ tắc nữ công nhỉ?

MÃNG ÔNG: Vâng thi cháu đủ nữ tắc nữ công đấy chứ

SÙNG ỐNG: Đây này! (cầm con dao giơ vào mặt Mãng ông) Đang nửa đêm nó cầm dao giết chồng đây này!

MÃNG ÔNG: Úi chao Thật thế hở ông?

SÙNG ÔNG: Ông chưa mở mắt ra mà trông đấy à? (chỉ Thị Kính) Đấy, con ông đấy, ông đem về mà dạy bảo. Từ giờ trở đi ông hãy bớt cái mồm mà khoe khoang, nữ tắc với chả nữ công. Về đi!

MÃNG ỐNG: Ông ơi! Ông cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện với, ông ơi!

SÙNG ÔNG: Biết này !

(Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào. Thị Kính chạy vội lại đỡ cha. Hai cha con ôm nhau than khóc).

MĂNG ÔNG: Con bị! Con ăn ở ra sao mà nên nông nỗi này hở con?

THỊ KÍNH: Cha ơi! Oan cho con lắm cha ơi!

MẢNG ỐNG: Oan cho con lắm à? (sử rầu rồi vãn) 

Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan

Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào?

Thôi sự tình về nhà nói cho cha mẹ biết. 

Dù oan, ngay, giờ biết kêu ai. 

Thôi đứng dậy về cùng cha, 

Rồi cha liệu cho con. 
(Thị Kính dẫn cha đi một quãng, Mãng ông quay lại) 

Về cùng cha, con ơi!

(Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay).

THỊ KÍNH: (hát sử rầu)

Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo (7)

Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi. 

Nghĩ trách mình phận hẩm duyên đi

Cho nên nỗi thế tình run rủi!

(nói thảm) Về cùng cha! Có trở về như vậy 

Cũng không sao tránh khỏi tiếng mỉa mai. 

Không không phải sống ở đời mới mong tỏ rõ là người đoan chính...

(sử rầu tiếp) Con vọng bái nghiêm từ (8) tôn kính

Con tìm nơi khuất mặt cho xong.

Trách lòng ai nỡ phụ lòng

Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi

Nhật nguyệt rạng soi

Thấu tình chăng nhẽ

Trước con lạy cha, sau con lạy mẹ

Thay áo quần giả dạng nam nhi 

(hát ba than) Áo chít cài khuy

Nay tôi quyết tâm trá hình nam tử bước đi tu hành.

Cầu Phật tổ chứng minh.

(Thị Kính lặng lẽ bước ra khỏi nhà họ Sùng, hướng về phía chân trời chớm rạng đông thì màn từ từ khép lại).

(Theo ĐỖ BÌNH TRỊ, HOÀNG HỮU YÊN: Văn tuyển văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, H., 1983)

Chú thích:

Tóm tắt vở chèo: 

Vở chèo có thể chia làm ba phần

1. Án giết chồng

Thiện Sĩ, con Sùng ông Sùng bà, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ bên cạnh. Thấy chồng có sợi râu mọc ngược, Thị Kính cầm dao ở thủng toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình, bất giác hô hoán lên. Cha mẹ chồng đổ riệt cho Thị Kính có ý giết Thiện Sĩ, đuổi Thị Kính về nhà bố đẻ.

2. Án hoang thai

Bị oan ức nhưng không biết kêu vào đâu, Thị Kính đi tu. Giả trai, vào tu ở chùa Vân Tự, lấy pháp hiệu là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông vốn tính lẳng lơ, say mê Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Mầu về nhà đùa ghẹo, ăn nằm với anh Nô là người ở, rồi có chửa. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Màu khai cho Kính Tâm. Kính Tâm chịu oan tình, bị đuổi ra tam quan (cổng chùa). Thị Mầu đem con bỏ cho Kính Tâm.

3. Oan tình được giải – Thị Kính lên tòa sen

Trải ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng “hóa”, được lên tòa sen, trở thành Phật bà Quan Âm. Trước khi “hóa”, Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới rõ Kính Tâm là gái và hiểu rõ tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.

(1) Soi kinh bóng quế: ý nói chăm đọc sách mong được thi đỗ. . 

(2) Long vân: ý nói thi cử đỗ đạt (rồng gặp mây).

(3) Chỉ những cuộc tình bất chính (trên bãi sông Bộc, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, trong ruộng dâu là chỗ ngày xưa, trai gái nước Trịnh và nước Vệ hay hẹn hò nhau ra đó để tình tự).

(4) Bổng Báo: tức thôn Bổng Thượng thuộc Vĩnh Lộc (Thanh Hóa), một nơi đất văn vật thời xưa, xe ngựa dập dìu, người ta thường đưa ngựa bất kham về đây thuần hóa được cả.

(5) Cầu Nôm: thuộc huyện Mỹ Văn (Hưng Yên) ngày nay, có nghề đúc đồng.

(6) Cao môn lệnh tộc: chỉ nơi giàu có, quyền thế. 

(7) Sắt cầm tịnh hảo: ý nói tình vợ chồng hòa hợp (sắt, cầm là hai thứ đàn cổ).

(8) Nghiêm từ: cha mẹ.


Đọc hiểu Nỗi oan hại chồng

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại: 

A. Chèo cổ 

B. Chèo bác học 

C. Tuồng đồ

D. Tuồng pho 

Câu 2. Văn bản kể lại sự việc gì?

A. Thị Kính nhổ râu cho chồng 

B. Thị Kính với ý định cắt râu mọc ngược cho chồng nhưng bị nghi oan là muốn giết chồng

C. Âm mưu giết chồng của Thị Kính 

D. Thị Kinh vô ý cầm dao khiến chồng lầm tưởng rằng nàng có ý định giết chồng 

Câu 3. Thái độ của Sùng Ông và Sùng Bà trước lời kêu cứu của Thiện Sĩ khác nhau như thế nào? 

A. Sùng Bà ngay lập tức hỏi cho ra nhẽ còn Sùng Ông thì lờ đi coi như không có chuyện gì

B. Sùng Bà ngay lập tức trách móc con trai và bênh Thị Kính, Sùng Ông thì thông báo cho thông gia là Mãng Ông đem con gái về

C. Sùng Bà ngay lập tức đổ lỗi, trách cứ và buộc tội con dâu là Thị Kính, Sùng Ông bán tính bán nghi không tin nhưng rồi cũng buộc phải nghe theo Sùng Bà

D. Sùng Bà ngay lập tức đưa Thị Kính về nhà bố mẹ, Sùng Ông thì ra sức van nài vợ để cứu Thị Kính 

Câu 4.  Đoạn nói lệch của Sùng Bà thể hiện được thái độ của nhân vật với Thị Kính như thế nào? 

SÙNG BÀ: (nói lệch) Ôi chao ơi là mặt!

Chém bỏ băm vằm sả sích mặt! 

Gái say trai lập chí giết chồng!

A. Đay nghiến, mỉa mai, lên án mạnh mẽ hành động cố ý giết chồng của Thị Kính 

B. Chia sẻ về đức hạnh của người phụ nữ 

C. Tạo không khí rộn ràng, gấp gáp trước sự tình hiện tại 

D. Chê bai cách hành xử của Thị Kính 

Câu 5. Lời hát sử rầu của Thị Kính ở cuối đoạn trích cho thấy điều gì về nàng?  

A. Khẳng định sự đoan chính và không muốn trở về khiến cho mẹ xấu hổ, quyết định đi giả nam tu hành

B. Muốn minh oan cho bản thân 

C. Khẳng định sự đoan chính, không làm điều hổ thẹn với lương tâm 

D. Quyết tâm tu hành 

Câu 6.  Đáp lại những lời kêu oan của Thị Kính, Sùng ông, Sùng bà đã có hành động gì?  

A. Liên tiếp buộc tội Thị Kính 

B. Liên tiếp buộc tội Thị Kính và đem đi bêu rếu khắp nơi

C. Đem chuyện này trình báo lên quan trên 

D. Liên tiếp buộc tội Thị Kính và trả Thị Kính về nhà Mãng ông 

Câu 7. Theo em, lí do nào khiến Thị Kính chẳng thể minh oan? 

A. Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, lời nói của người phụ nữ không có trọng lượng minh oan 

B. Do định kiến mẹ chồng nàng dâu 

C. Do Thị Kính không tìm được đủ lí do thuyết phục minh oan 

D. Do Thị Kính và Thiện Sĩ tình cảm không được tốt đẹp 

Câu 8. Liệt kê và phân tích lời thoại cho thấy được thái độ của Sùng Bà đối với Thị Kính? Theo em, có những lí do khiến Sùng Bà có những lời lẽ và hành động như vậy? 

Câu 9.  Vì sao toàn bộ cuộc đối thoại nỗi oan Thị Kính, Thiện Sĩ lại không nói lời nào hoặc chỉ nói rất ít?  

Câu 10.  Đoạn trích trên đã cho thấy phẩm chất và số phận gì của Thị Kính nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung? 

Đọc hiểu nỗi oan hại chồng

Trả lời đọc hiểu

Câu 1: Chọn A. Chèo cổ 

Giải thích: Chèo cổ hay còn gọi là chèo sơ khai là hình thức câu hát được kết thừa và phát triển trên nguyên tắc bảo tồn những nguyên tắc cơ bản trong phương pháp nghệ thuật của chèo cổ.

Câu 2: Chọn B. Thị Kính với ý định cắt râu mọc ngược cho chồng nhưng bị nghi oan là muốn giết chồng

Câu 3: Chọn C. Sùng Bà ngay lập tức đổ lỗi, trách cứ và buộc tội con dâu là Thị Kính, Sùng Ông bán tính bán nghi không tin nhưng rồi cũng buộc phải nghe theo Sùng Bà 

Giải thích:

- Sùng bà: Thôi đi, lại còn kề cổ ai vào đây nữa?

Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à? (Dúi đầu Thị Kính ngã xuống) Úi chao! Tôi đã bảo ông mà! 

- Sùng ông: Thì ra con Thị Kính này nó là gái giết chồng thật hở bà?

Thì tôi biết đâu! Tôi cứ tưởng như tôi với bà ngày còn trẻ kia đấy. Tôi thì tôi đồ chừng chỉ là cái chuyện như tôi với bà cái thuở đương thì đấy thôi bà ạ.

Câu 4: Chọn A. Đay nghiến, mỉa mai, lên án mạnh mẽ hành động cố ý giết chồng của Thị Kính 

Câu 5: Chọn A. Khẳng định sự đoan chính và không muốn trở về khiến cho mẹ xấu hổ, quyết định đi giả nam tu hành

Câu 6: Chọn D. Liên tiếp buộc tội Thị Kính và trả Thị Kính về nhà Mãng ông 

Giải thích:

- Liên tiếp buộc tội:

+ Thôi con vào rửa mặt mà đọc sách. Rồi đây mẹ lấy cho dăm bảy vợ, tiếc gì cái đồ sát chồng kia nữa

+ "Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à?"

- Trả Thị Kính về với Mãng Ông

+ Sùng Bà: Không biết gọi Mãng ông sang đây mà giao giả con Thị Kính kia đi. Để như vậy con mình có ngày chết oan vì nó đấy. Thôi ông đi đi!

Câu 7: Chọn A. Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, lời nói của người phụ nữ không có trọng lượng minh oan 

Câu 8:

- Một số lời thoại của Sùng bà: 

+ Mày cứ thú với bà, bà cũng thứ đi cho. 

Can chi phải dụng tình bất trắc. 

Mày ngửa mặt lên cho bà xem nào

+ Ôi chao ơi là mặt!

Chém bỏ băm vằm sả sích mặt! 

Gái say trai lập chí giết chồng!

+ Hãy còn oan à? (với Thiện Sĩ) Đi! Đi vào!

+ Không biết gọi Mãng ông sang đây mà giao giả con Thị Kính kia đi. Để như vậy con mình có ngày chết oan vì nó đấy. Thôi ông đi đi!

- Nhận xét lời thoại của Sùng Bà: Đầy cay nghiệt, luôn đổ lỗi, chỉ trích, không lắng nghe Thị Kính giải thích mà buộc tội và gán cho nàng án oan

=>> Số phận của người phụ nữ không được nói lên tiếng nói để bảo vệ danh dự và phẩm giá của mình 

Câu 9:

Suy nghĩ và cảm nhận của bản thân:

- Nhân vật Thiện Sĩ không xuất hiện hay có lời thanh minh cho vợ mình để tô đậm sự thiệt thòi của Thị Kính, không được chồng thấu hiểu, chia sẻ và che chở 

- Thiện Sĩ nghe lời mẹ và cũng tự cho mình quyền gán nỗi oan hại chồng cho Thị Kính  

Câu 10:

- Vẻ đẹp phẩm chất: Là một người phụ nữ có dung nhân và phẩm chất cao đẹp, luôn yêu thương, thủy chung quan tâm chồng, hết lòng vì gia đình nhà chồng 

- Số phận: Chịu nỗi oan ô nhục, bị trả về cha mẹ đẻ, không thể cất lên tiếng minh oan cho bản thân, một số phận bất hạnh chung của bao người phụ nữ với xã hội ngày xưa.
 

icon-date
Xuất bản : 12/10/2023 - Cập nhật : 13/10/2023