Trả lời bài đọc hiểu Châu Long gặp gỡ và giúp đỡ Lưu Bình để thấy rằng cuộc sống dù có khăn đến đâu chỉ cần bên bạn luôn có người sẵn sàng chia sẻ và trân trọng ân nghĩa sẽ là động lực để bạn vươn tới những thành công.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
CHÂU LONG GẶP GỠ VÀ GIÚP ĐỠ LƯU BÌNH
(Trích chèo “Lưu Bình Dương Lễ”)
LƯU BÌNH:
Thương ơi, Tôi tưởng bạn tôi làm nên danh phận
Rắp đem thân tới bạn mà nhờ
Không ngờ bạn chẳng đoái tình xưa
Thân tôi thế tôi, trách người sao được
Đây đã về đến cây cao bóng mắt
Thấy chữ đề là quán Nghinh Hương Quán mát mẻ, tôi vào chơi tạm trú
Sẵn bút nghiên, tôi đề thơ nhất thủ (1)
Đề bốn câu cho giãi tấm lòng sầu.
Thơ rằng:
Của tuyết, then sương đã bấy lâu
Khó hèn sao nỡ vội quên nhau
Sớm muộn bởi giời duyên với phận
So ra ai đã kém ai đâu.
CHÂU LONG: (Hát sắp)
Vì chàng thiếp phải long đong quan
Những như thân thiếp đã xong một bề
(Nói với Lưu Bình)
Thiếp đứng ngoài nghe trộm đã lâu
Xem thơ ấy bất bình lắm nhẽ
Gặp chàng đây cũng là vắng vẻ
Thiếp tỏ tường thua lại chàng hay
Chắc chàng còn mắc míu chi đây
Chàng nói thực thiếp tôi được biết.
LƯU BÌNH:
Nhọc nhằn nói chẳng ra hơi
Nàng đã hỏi tôi xin nói
Có bạn với Dương công từ thuở hàn vi
Tôi mong tìm đến anh em mà cậy
Một là bận việc quan nên người quên khuấy
Người đắc thì tôi lại thất thì
Hai nữa là phú tác dịch giaoTôi chờ ba ngày cũng chẳng được vào
Đúng lơ láo không ai chào hỏi
Trục sau thấy chú phòng ra nói
Nói những lời không đánh mà đau
Cho nên trong dạ thảm sầu
Thân Lưu này có muốn sống làm chi nữa.
CHÂU LONG:
Thiếp xin chàng, dùng với giận làm chi
Có thương thiếp xin nghe lời thiếp nói
Vốn thiếp nay con nhà giòng dõi
Đeo hồng nhan luống những cậy mình
Một hai ước hảo cầu cát sĩ
Bac mẹ thiếp tham bên phú quý
Ép thiếp vào một của phú thương
Trái nhân duyên nhiều nỗi dở dang
Trái duyên kiếp ở làm sao được
Thiếp chẳng quản đường trường non nước
Bước chân di đã có nhời nguyền
Hễ gặp chàng nho sĩ kết duyên
Bõ lòng thiếp rày ao mai ước.
Gặp chàng đây đang con lỡ bước
Thiếp xin theo về sửa túi nâng khăn
Giúp cơm áo cho chàng ăn học
LƯU BÌNH:
Quả tôi nay đang con tủi nhục
Mà nàng có lòng thương
Gánh việc tư lương
Giúp công đăng hoa
Nàng là bậc phong lưu phú quí
Đưa nàng đi vất vả sao đành
Xét mình tôi còn muộn khoa danh
Đa mang thế, sợ những công đèn sách.
CHÂU LONG:
Khuyên chàng đứng lên đi
Kẻo đường còn xa lắc
Hành lý này thiếp lĩnh, thiếp mang
Thiếp xin theo về cho đến gia trang
Giúp cơm áo cho chàng ăn học.
CẢ HAI: (Sa lệch) Quán Nghinh Hương kỳ ngộ thiên duyên
Tấm lòng phó mặc hoàng thiên sách bày
Tơ hồng nguyệt lão xe dây...
LƯU BÌNH:
Nay đã về đến quê nhà
Nhà tứ bích, nhất trần như tẩy (2)
Khó hèn như thân Lưu đành vậy
Nàng đa mang chi... vất vả sao đành?
Vốn tôi nay còn muộn công danh
Thân lận đận sợ nàng khóc nhọc
CHÂU LONG:
Cũng bởi lửa hương duyên bén
Quản lầm than thiếp đến chi đây
Thiếp khuyên chàng có một lời này
Chàng có nghe thiếp xin vâng nói
Gian nhà này, xin ngăn làm đôi vách
Chàng phòng ngoài, thiếp ở phòng trong
Chàng đêm ngày luyện tập sử văn
Thiếp khuya sớm ra tay kim chỉ
LƯU BÌNH: (Ngồi học, hát nam sử)
Thánh nhân, thiên tử, thánh nhân quân.
Cổ thế từng khen thượng đại nhân
Nghiêu, Thuấn, thuận theo, Nghiêu Thuấn trị
Võ Thang nối nghiệp, Võ Thang văn.
CHÂU LONG (Hát tiếp)
Thiếp khuyên chàng gắng công đèn sách
Nữa một mai nhất cử đăng khoa
Cho bõ công thày mẹ sinh ra
Nhớ đến chữ thánh nhân mới khá.
LƯU BÌNH (Tiếp)
Tam vương đức lớn, tam vương thịnh
Ngũ đế tài cao, ngũ đế xuân
Mùng gặp hội lành đua nết tốt
Thái bình thiên tử thái bình dân.
CHÂU LONG (Hát tiếp) - Đế
Trỗi Thiếp giữ nếp chân dày, tay dệt
Chàng thời ôn kinh thánh, truyện hiền
Sang trống canh ba, nghe chuông đổi thay quyền
Đánh thức dạy, thiếp khuyên chàng sáng nghiệp.
LƯU BÌNH:
Nàng ơi,
Ba năm nay những riêng chăn, riêng gối
Sự giảng hoa anh chẳng dám ngỏ lời
Nàng mở của ra cho anh từ biệt một đôi lời
Trước tiểu đăng khoa sau đại đăng khoa tin
Trước ứng điểm bẻ quế, thăm hoa
Sau bộ thỏa tấm lòng thương nhớ.
CHÂU LONG:
Lời chàng dạy không nghe thì sợ
Ba năm nay ngọc khiết băng thanh
Chẳng bao lâu công toại danh thành
Đã chính thủy xin chính chung cho vẹn
Chàng ra thị thiếp cũng xin theo
Chàng làm nên áo gấm tên treo
Thiếp trở về nói cho bằng lòng cha mẹ.
LƯU BÌNH:
Nàng đã nói thời sửa sang hành lý
Vợ chồng ta cùng trảy vào thi
HAI NGƯỜI: (Hát sa lệch)
Công phu đèn sách chuyên cần
Ra tài quyết chí lập thân hội này
Bảng vàng, thẻ bạc về tay
Bõ công học tập theo thày bấy lâu
Mong sau rạng nếp công hầu...
(Cùng hạ)
(Trích Hà Văn Cầu, Tuyển tập chèo cổ, NXB Sân khấu,1999)
Chú thích:
Tóm tắt vở chèo: Xưa có một người tên là Dương Lễ, quê quán ở xứ Sơn Tây, gặp một người tên là Lưu Bình. Hai người đều ham chuộng thơ văn, liền làm bạn với nhau, rồi cùng lên đường về kinh đô theo học. Hai người được thầy tận tình truyền dạy văn chương chữ nghĩa và đạo lý làm người.
Dương Lễ đỗ Trạng nguyên, được làm quan. Trong khi đó, Lưu Bình thi trượt, phải sống lang thang, rồi trở về quê. Cuộc sống khó khăn, lại gặp cảnh loạn lạc, Lưu Bình nghĩ đến người bạn kết nghĩa năm xưa, bèn tìm đến nhà Dương Lễ. Dương Lễ không ra gặp mặt mà sai đày tớ hắt hủi Lưu Bình, bưng ra mời bát cơm nguội cùng quả cà thiu. Lưu Bình thất vọng muốn tìm tới cái chết. Dương Lễ muốn cậy nhờ người vợ ba của mình thay chàng đi nuôi bạn ăn học. Châu Long thấy vậy liền nhận lời để giúp chồng thỏa ý nguyện.
Châu Long từ biệt chồng, một mình nàng cất bước ra đi. Giữa đường, nàng ghé quán Nghinh Hương. Tại đây, nàng gặp Lưu Bình trên đường về quê cũng đang tạm dừng chân. Hai người trò chuyện hồi lâu. Lưu Bình thuật lại đoạn đời gian nan vất vả của mình, còn Châu Long thì kể rằng cha mẹ gả nàng cho một người giàu có, nhưng nàng không chịu nổi cuộc sống ở đó, bèn tự ý bỏ đi. Khi thấy Lưu Bình ngỏ ý muốn quyết chí đèn sách học hành, Châu Long liền ưng thuận theo chàng về quê để nuôi chàng ăn học.
Châu Long mang số tiền Dương Lễ giao cho nàng đem theo để cất lại ngôi nhà và đón thày về dạy học cho Lưu Bình. Còn nàng ở riêng trong một căn phòng nhỏ, ngày đêm đảm đang quán xuyến gia đình, không chút vương vấn nguyệt hoa. Thấm thoắt đã qua ba mùa hoa nở, Châu Long hết lòng chăm lo cho Lưu Bình ăn học mà lòng nàng không lúc nào nguôi nỗi nhớ mong chồng.
Vua ban chiếu mở khoa thi kén Trạng nguyên. Lưu Bình từ biệt Châu Long và thày dạy học để lên kinh đô ứng thí và đỗ ngôi đầu Trạng nguyên. Trong khi đó, ở nơi quê nhà, nàng Châu Long hay tin Lưu Bình đã đỗ Trạng nguyên, nàng liền vui mừng sắp đặt nhà cửa gọn gàng ngăn nắp, gửi gắm xóm giềng để trở về phủ Dương Lễ. Lưu Bình khi về tới nơi, chẳng thấy Châu Long đâu cả. Chàng lại tìm đến nhà quan Dương Lễ và được Dương Lễ ân cần đón tiếp, hỏi han. Lưu Bình buồn rầu thuật lại chuyện gia đình. Dương Lễ lần lượt cho gọi ba người vợ ra mời rượu Lưu Bình. Khi nhìn thấy Châu Long thì chàng chợt hiểu sự tình.
* Tên đoạn trích do người soạn đề - Cô Quỳnh Anh đặt: Nằm ở phần giữa đoạn trích: Giữa đường, nàng ghé quán Nghinh Hương. Tại đây, nàng gặp Lưu Bình trên đường về quê cũng đang tạm dừng chân. Hai người trò chuyện hồi lâu. Lưu Bình thuật lại đoạn đời gian nan vất vả của mình, còn Châu Long thì kể rằng cha mẹ gả nàng cho một người giàu có, nhưng nàng không chịu nổi cuộc sống ở đó, bèn tự ý bỏ đi. Khi thấy Lưu Bình ngỏ ý muốn quyết chí đèn sách học hành, Châu Long liền ưng thuận theo chàng về quê để nuôi chàng ăn học.
(1) Đề thơ một bài
(2) Ý nói nhà quá nghèo, trong nhà bốn bức tường nhãn nhụi như chùi, như rửa
Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại:
A. Chèo cổ (chèo sân đình)
B. Chèo bác học
C. Tuồng đồ
D. Tuồng pho
Câu 2. Văn bản kể lại sự việc gì?
A. Lưu Bình thất vọng muốn tìm tới cái chết. Dương Lễ muốn cậy nhờ người vợ ba của mình thay chàng đi nuôi bạn ăn học. Châu Long thấy vậy liền nhận lời để giúp chồng thỏa ý nguyện.
B. Châu Long từ biệt chồng, một mình nàng cất bước ra đi. Giữa đường, nàng ghé quán Nghinh Hương. Tại đây, nàng gặp Lưu Bình trên đường về quê cũng đang tạm dừng chân. Hai người trò chuyện hồi lâu. Lưu Bình thuật lại đoạn đời gian nan vất vả của mình. Châu Long liền ưng thuận theo chàng về quê để nuôi chàng ăn học.
C. Châu Long mang số tiền Dương Lễ giao cho nàng đem theo để cất lại ngôi nhà và đón thày về dạy học cho Lưu Bình. Còn nàng ở riêng trong một căn phòng nhỏ, ngày đêm đảm đang quán xuyến gia đình, không chút vương vấn nguyệt hoa
D. Vua ban chiếu mở khoa thi kén Trạng nguyên. Lưu Bình từ biệt Châu Long và thày dạy học để lên kinh đô ứng thí và đỗ ngôi đầu Trạng nguyên. Trong khi đó, ở nơi quê nhà, nàng Châu Long hay tin Lưu Bình đã đỗ Trạng nguyên, nàng liền vui mừng sắp đặt nhà cửa gọn gàng ngăn nắp, gửi gắm xóm giềng để trở về phủ Dương Lễ
Câu 3. Khi kể lại câu chuyện bị Dương Lễ ghẻ lạnh, lời thoại nào miêu tả rõ tâm trạng, cảm xúc của Lưu Bình?
A. Cho nên trong dạ thảm sầu
Thân Lưu này có muốn sống làm chi nữa.
B. Vốn tôi nay còn muộn công danh
Thân lận đận sợ nàng khóc nhọc
C. Một là bận việc quan nên người quên khuấy
Người đắc thì tôi lại thất thì
D. Thánh nhân, thiên tử, thánh nhân quân.
Cổ thế từng khen thượng đại nhân
Câu 4. Lưu Bình đã giãi bày những khó nhọc nào của bản thân với Châu Long?
A. Gia cảnh nghèo khó “Nhà tứ bích, nhất trần như tẩy”
B. Chưa có thành tựu công danh
C. Gia cảnh nghèo khó và chưa đỗ đạt công danh
D. Bản thân là người đã có ước hẹn ở quê nhà
Câu 5. Đáp lại lời giãi bày và do dự của Lưu Bình, Châu Long đã có lời lẽ ra sao?
A. Bày tỏ mong muốn chăm sóc, hỗ trợ Lưu Bình vì thấy chàng là nho sĩ nên thỏa lòng ao ước được cùng đồng hành vì nàng rất thích các nho sĩ.
B. Kể lại câu chuyện mình bị ép duyên và hiện nay nàng không có ai nương tựa, chỉ có thể nhờ vào mối duyên bất ngờ với Lưu Bình
C. Kể lại câu chuyện mồ côi của mình và bản thân phải tha hương cầu thực, chỉ có thể nương vào mối duyên với Lưu Bình
D. Kể lại câu chuyện mình bị ép duyên và tự ý bỏ nhà ra đi. Bày tỏ mong muốn chăm sóc, hỗ trợ Lưu Bình vì thấy chàng là nho sĩ nên thỏa lòng ao ước được cùng đồng hành.
Câu 6. Lời hát sa lệch (lời hát thường dùng để miêu tả tâm trạng) ở đoạn cuối đoạn trích cho thấy điều gì về nhân vật Lưu Bình và Châu Long?
HAI NGƯỜI: (Hát sa lệch)
Công phu đèn sách chuyên cần
Ra tài quyết chí lập thân hội này
Bảng vàng, thẻ bạc về tay
Bõ công học tập theo thày bấy lâu
Mong sau rạng nếp công hầu...
A. Lời bày tỏ tình cảm của Lưu Bình với Châu Long
B. Lời bày tỏ tình cảm của Châu Long với Lưu Bình
C. Lời giãi bày thể hiện quyết tâm ý chí tu luyện để công thành danh toại của Lưu Bình
D. Lời giãi bày thể hiện ý chí quyết tâm đồng lòng của Lưu Bình và Châu Long
Câu 7. Hành động ba năm gắn bó, lo lắng cho việc đèn sách của Lưu Bình mà vẫn giữ được tiết hạnh trong sạch, cho thấy Châu Long là người như thế nào?
A. Không vì lợi ích cá nhân
B. Thủy chung tình nghĩa với Dương Lễ và thấu tình đạt lí
C. Thấu tình đạt lí
D. Hết mực chung thành với Dương Lễ
Câu 8. Nêu đặc điểm của ngôn ngữ chèo được thể hiện qua đoạn trích
Câu 9. Qua đoạn trích trên, em hãy nhận xét về phẩm chất của nhân vật Lưu Bình và Châu Long
Câu 10. Đoạn trích thể hiện được sự ân tình của Châu Long khi hết lòng hỗ trợ giúp đỡ Lưu Bình cho tới ngày chàng vào kinh ứng thi. Từ nội dung chủ đề của đoạn trích, em hãy viết đoạn văn khoảng 12 câu bàn luận về lối sống ân tình của người Việt Nam.
Câu 1: Chọn A. Chèo cổ (chèo sân đình)
Giải thích: Chèo sân đình là một loại hình nghệ thuật cổ, được thực hiện bởi những phường chèo, biểu diễn ở các sân đình, chùa hoặc sân các gia đình quyền quý.
Câu 2: Chọn B. Châu Long từ biệt chồng, một mình nàng cất bước ra đi. Giữa đường, nàng ghé quán Nghinh Hương. Tại đây, nàng gặp Lưu Bình trên đường về quê cũng đang tạm dừng chân. Hai người trò chuyện hồi lâu. Lưu Bình thuật lại đoạn đời gian nan vất vả của mình. Châu Long liền ưng thuận theo chàng về quê để nuôi chàng ăn học.
Câu 3: Chọn A. Cho nên trong dạ thảm sầu
Thân Lưu này có muốn sống làm chi nữa.
Câu 4: Chọn C. Gia cảnh nghèo khó và chưa đỗ đạt công danh
Giải thích:
- Chưa đỗ đạt công danh
Xét mình tôi còn muộn khoa danh
Đa mang thế, sợ những công đèn sách.
Vốn tôi nay còn muộn công danh
- Gia cảnh nghèo khó:
Nhà tứ bích, nhất trần như tẩy (2)
Khó hèn như thân Lưu đành vậy
Câu 5: Chọn D. Kể lại câu chuyện mình bị ép duyên và tự ý bỏ nhà ra đi. Bày tỏ mong muốn chăm sóc, hỗ trợ Lưu Bình vì thấy chàng là nho sĩ nên thỏa lòng ao ước được cùng đồng hành.
Câu 6: Chọn C. Lời giãi bày thể hiện quyết tâm ý chí tu luyện để công thành danh toại của Lưu Bình
Câu 7: Chọn B. Thủy chung tình nghĩa với Dương Lễ và thấu tình đạt lí
Câu 8:
Đặc điểm của ngôn ngữ chèo được thể hiện qua đoạn trích:
- Đan xen giữa nói và hát: Lời nói xen lẫn lời hát sắp, hát sai lệch của Châu Long và Lưu Bình
Hát sa lệch:
Công phu đèn sách chuyên cần
Ra tài quyết chí lập thân hội này
Bảng vàng, thẻ bạc về tay
Bõ công học tập theo thày bấy lâu
Mong sau rạng nếp công hầu...
CHÂU LONG: (Hát sắp)
Vì chàng thiếp phải long đong quan
Những như thân thiếp đã xong một bề
(Nói với Lưu Bình)
Thiếp đứng ngoài nghe trộm đã lâu
Xem thơ ấy bất bình lắm nhẽ
Gặp chàng đây cũng là vắng vẻ
Thiếp tỏ tường thua lại chàng hay
Chắc chàng còn mắc míu chi đây
Chàng nói thực thiếp tôi được biết.
- Sử dụng các điển tích, điển cố, ca dao:
+ Các đại nhân nổi tiếng
Thánh nhân, thiên tử, thánh nhân quân.
Cổ thế từng khen thượng đại nhân
Nghiêu, Thuấn, thuận theo, Nghiêu Thuấn trị
Võ Thang nối nghiệp, Võ Thang văn.
- Sử dụng các làn điệu, lối hát riêng của chèo: Sa lệch, hát sắp, tiếng đế,…
Câu 9:
- Lưu Bình: Ban đầu, đau khổ vì bị khinh dễ, coi thường. Sau đó quyết tu tâm tu chí để học hành và đi thi
- Châu Long: Thủy chung, tình nghĩa, hết lòng hỗ trợ, nâng đỡ cho Lưu Bình nhưng rất thủy chung, giữ lễ nghĩa vì Dương Lễ
Câu 10:
Tục ngữ Việt Nam từng nói rằng: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” có lẽ câu nói trên được coi là thông điệp gửi gắm đến mọi người cần có tình nghĩa trong cuộc sống. Bạn đã từng đặt câu hỏi với chính bản thân bạn rằng đã sống tình nghĩa chưa? Bạn hiểu như thế nào về tình nghĩa? Ý nghĩa của việc sống tình nghĩa trong cuộc sống là như thế nào? Tôi sẽ không khẳng định rằng mình đã sống có ân nghĩa, tình nghĩa trong cuộc sống nhưng tôi đã cho đi và nhận lại tất cả những điều trân quý đó để đáp lại cuộc sống này. Trước tiên ta cần hiểu ân nghĩa tình nghĩa là những món quà của sự thắm thiết, sự gắn bó có chịu ơn và biết ơn lẫn nhau giữa người với người. Việc nhận ơn nghĩa từ người khác khiến cho cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn, vượt qua được những khó khăn trước mắt, từ đó sống tốt hơn. Hơn hết lòng biết ơn giúp chúng ta rèn luyện thêm nhiều những đức tính tốt đẹp, đồng thời truyền tải những thông điệp tích cực, những thông điệp văn minh để xã hội ngày một phát triển hơn. Chắc hẳn bản thân bạn đã từng trao đi ân tình cũng như tình nghĩa, mỗi khi trao đi những điều đó để nhận lại một lời "cảm ơn" chân thành, chỉ cần những điều nhỏ bé đó đã giúp bạn thêm phần động lực để tiếp tục tạo nên nhiều giá trị trong cuộc sống. Ta thấy rằng trong truyện cổ tích "Ăn khế trả vàng" người em trong gia đình là hiện thân cho những ân nghĩa tình nghĩa của cuộc sống, bằng việc cho con chim ăn một quả khế để rồi nhận lại vô số vàng, cùng trong cốt truyện đó người anh là hiện thân của những gương mặt phản diện tròn cuộc sống. Cũng như việc xã hội còn tồn tại những cá nhân lạnh lùng vô cảm, nhận được sự giúp đỡ, ơn nghĩa của người khác nhưng ngoảnh mặt làm ngơ hoặc đứng nhìn người khác gặp hoàn cảnh khó khăn mà không giúp đỡ,… những người này đáng bị xã hội thẳng thắn phê phán và lên án. Vì cuộc sống là hiện thực tồn tại của quy luật nhân quả thế nên mỗi cá nhân chúng ta cần là những con người luôn biết trân trọng ân nghĩa.