Tham vấn chuyên môn bài viết
Giáo viên:
Hoàng Thị Dung
Giáo viên Ngữ Văn với 3 năm kinh nghiệm
Tham vấn chuyên môn bài viết
Giáo viên:
Hoàng Thị Dung
Giáo viên Ngữ Văn với 3 năm kinh nghiệm
Kể từ năm 2025 khoá 2K7 dạng đề so sánh hai tác phẩm môn Ngữ Văn 12 trở thành chuyên đề bắt buộc trong cả ba sách kết nối tri thức, cánh diều, chân trời sáng tạo. Đây là một trong những nội dung quan trọng có thể sẽ gặp trong kì thi tốt nghiệp THPT 2025.
Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm là nêu lên một cách thuyết phục những điểm tương đồng và khác biệt của hai tác phẩm. Cũng có thể chỉ yêu cầu nêu điểm tương đồng hoặc điểm khác biệt về nội dung, hình thức nghệ thuật của hai văn bản, từ đó bàn luận, nhận xét giá trị độc đáo của mỗi văn bản, nhận ra đặc điểm thể loại, vai trò của cá tính sáng tạo, chỉ ra những điểm chung trong quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương,...
Bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm văn học thường được thực hiện giữa các tác phẩm cùng thể loại. Cũng có thể yêu cầu so sánh, đánh giá giữa hai thể loại khác nhau nhưng thường để khẳng định điểm giống nhau về đề tài, chủ đề và tư tưởng của hai tác phẩm; ví dụ, các tác phẩm Sông núi nước Nam (khuyết danh), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi), Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh),... viết với các thể loại rất khác nhau nhưng đề tài, chủ đề, tư tưởng, tình cảm,... của các tác phẩm ấy có rất nhiều điểm tương đồng.
Sự khác biệt giữa hai tác phẩm thường biểu hiện rõ ở cách thức, nghệ thuật, hình thức thể hiện từ phương thức biểu đạt đến các hình thức, thủ pháp nghệ thuật.
- Với các văn bản thơ, cần chú ý đến nghệ thuật sử dụng, sáng tạo từ ngữ; các hình ảnh và biểu tượng; cách cấu tứ, các dạng thức của cái “tôi” trữ tình;...
- Với các văn bản truyện và tiểu thuyết, cần chú ý đến nhân vật, điểm nhìn trần thuật, kết cấu, cách kết thúc truyện, kĩ thuật miêu tả ngoại hình, chân dung và phân tích tâm lí nhân vật,...
- Với các văn bản kịch, cần chú ý đến mô típ, cốt truyện, hệ thống nhân vật, xung đột kịch, các dạng thức của lời đối thoại, độc thoại,...
- Với các văn bản kí, cần chú ý đến đề tài, cách tiếp cận vấn đề, cách khai thác số liệu, tài liệu,...
Có nhiều cấp độ và yêu cầu so sánh, cụ thể: so sánh hai tác phẩm, hai đoạn trích; so sánh hai yếu tố như chi tiết, nhân vật, cốt truyện, tình huống truyện, bối cảnh, ngôi kể, điểm nhìn, biện pháp nghệ thuật, đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng,...
+ Tìm kiếm đối tượng so sánh (với trường hợp người viết phải tự xác định) theo các định hướng: thể loại, phong cách tác giả, khuynh hướng sáng tác, thời điểm sáng tác. Xác định phạm vi so sánh (giữa hai tác phẩm, hai đoạn trích, hai mô típ,...).
+ Phân tích điểm giống nhau, điểm khác nhau hoặc cả giống nhau và khác nhau giữa hai tác phẩm được so sánh. Chỉ ra ý nghĩa của sự giống nhau và khác nhau, từ đó giúp người đọc nhận thấy tính độc đáo, đặc sắc riêng của từng tác phẩm.
+ Bình luận, lí giải về nguyên nhân dẫn đến sự giống và khác nhau giữa hai tác phẩm.
+ Rút ra những nhận thức về đặc điểm thể loại, vai trò của cá tính sáng tạo, quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương,...
- Để tìm ý và lập dàn ý cho bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm văn học, HS cần đặt ra và trả lời các câu hỏi như:
+ Mục đích so sánh, đánh giá để thuyết phục hoặc làm rõ vấn đề gì?
+ Đối tượng và phạm vi so sánh là hai văn bản, hai tác phẩm nào?
+ Tiêu chí và phương diện cụ thể cần so sánh là gì (nội dung, nghệ thuật)?
+ Hai tác phẩm được so sánh giống hay khác nhau (hoặc cả hai) như thế nào?
+ Có thể rút ra những nhận xét và đánh giá gì về cái hay, cái đẹp, tính độc đáo, nét đặc sắc riêng của mỗi tác phẩm,...?
(Phỏng theo Đỗ Ngọc Thống (Chủ biên), Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông 2018, 2024, tr.46-49)
- Giới thiệu hai tác phẩm truyện.
- Nêu nội dung, vấn đề cần so sánh, đánh giá.
Công thức Mở bài 1: Văn chương bắt nguồn từ đời sống và phản ánh cuộc sống con người. Mỗi tác phẩm văn học đều viết lên nỗi niềm trăn trở, suy tư, tình yêu khát vọng của người nghệ sĩ dành cho cuộc đời. Tác phẩm A + của + tác giả A + và + tác phẩm B + của + tác giả B + đã thể hiện xuất sắc + vấn đề nghị luận + theo cách riêng.
Công thức Mở bài 2: Trong một lần trả lời phỏng vấn báo Văn nghệ năm 1986, Nguyễn Minh Châu đã bày tỏ quan điểm của mình về trách nhiệm của người nghệ sĩ: “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình”. Có lẽ không chỉ riêng Nguyễn Minh Châu, mọi nghệ sĩ chân chính tất thảy đều cầm giữ cái tình yêu lớn ấy trong mình mà trăn trở, mà sáng tạo. Đến với + hai tác phẩm A và B, tài năng và tấm lòng đi cùng với nhau trên từng trang viết tạo nên những áng văn vượt thời gian. Ở đó, ta bắt gặp sự đồng điệu trong + điểm chung + được thể hiện qua những + phong cách khác nhau, + thể hiện rõ dấu ấn, phong cách riêng của mỗi nhà văn.
Phân tích, so sánh hai tác phẩm để làm rõ điểm tương đồng, khác biệt về đặc điểm/ giá trị nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm. Triển khai bài viết bằng 1 trong hai cách: kết nối hoặc song song.
- Khẳng định lại đặc điểm thể loại của tác phẩm, những giá trị chung và nét độc đáo ở mỗi tác phẩm.
- Nêu cảm nghĩ về phong cách sáng tác của mỗi tác giả.
Công thức Kết bài 1: Khép lại trang văn nhưng sức sống của nó sẽ còn mãi theo thời gian. Cùng tái hiện lại + điểm chung + nhưng + tác phẩm A + đã + điểm khác biệt + còn + tác phẩm B + điểm khác biệt. Cả hai sáng tác đã đến với người đọc bằng con đường của trái tim và sự nhân văn cao cả, từ đó tạo nên những xung động thẩm mĩ trong tâm hồn con người.
Công thức Kết bài 2: Văn chương không phải liều thuốc an thần ru con người vào giấc ngủ uể oải, mộng mị. Và tất yếu, mọi tác phẩm chân chính đều không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện ngay cả khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Ở hai + tác phẩm A và B +, người nghệ sĩ đã gửi hồn vào từng con chữ, thức tỉnh nơi bạn đọc những rung động, tình cảm sâu xa tưởng như đã chìm vào quên lãng bởi lớp bụi của thời gian. Sự đồng điệu về + điểm chung + trong hai sáng tác cùng với + điểm khác biệt + của + tác phẩm A + và + điểm khác biệt + của + tác phẩm B + đã để lại dư vị khó phai trong lòng bạn đọc.
- Giới thiệu hai tác phẩm thơ.
- Nêu nội dung, vấn đề cần so sánh, đánh giá.
Công thức Mở bài 1: Văn chương bắt nguồn từ đời sống và phản ánh cuộc sống con người. Mỗi tác phẩm văn học đều viết lên nỗi niềm trăn trở, suy tư, tình yêu, khát vọng của người nghệ sĩ dành cho cuộc đời. Tác phẩm A của tác giả A và tác phẩm B của tác giả B đã thể hiện xuất sắc vấn đề nghị luận theo cách riêng.
Công thức Mở bài 2: Nghĩ về thơ, Soren Kierkegaard - một triết gia người Đan Mạch từng băn khoăn: “Thi sĩ là gì? Một con người bất hạnh giấu nỗi đau khổ sâu sắc trong tim, nhưng đôi môi đẹp tới mức khi tiếng thở dài và tiếng khóc đi qua, chúng nghe như âm nhạc du dương… Và người ta xúm lại quanh thi sĩ và bảo: 'Hãy hát tiếp đi' - hay nói theo cách khác, 'Mong những nỗi đau khổ mới hành hạ tâm hồn anh nhưng đôi môi anh vẫn đẹp đẽ như trước, bởi tiếng khóc sẽ chỉ làm chúng tôi hoảng sợ, nhưng âm nhạc thì lại rất hay.” Người ta ví thơ là một thứ thanh âm đẹp đẽ và thật hay, dẫu rằng ấy chính là tiếng vang của một tâm hồn đang ứ đầy cảm xúc. Không nói ra, không chịu được, anh chọn cách gửi vào thơ. Đến với tác phẩm A (tác giả) và tác phẩm B (tác giả), ta như được thả hồn mình vào dòng cảm xúc đã căng, đã đầy ấy mà hiểu, mà ngấm, mà đồng điệu với thi nhân. Ở đó, ta bắt gặp sự tương đồng trong [điểm chung], song vẫn có những nét riêng về [điểm riêng].
- Phân tích, so sánh hai tác phẩm để làm rõ điểm tương đồng, khác biệt về đặc điểm/ giá trị nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm. Triển khai bài viết bằng 1 trong hai cách: kết nối hoặc song song.
- Khẳng định lại đặc điểm thể loại của tác phẩm, những giá trị chung và nét độc đáo ở mỗi tác phẩm.
- Nêu cảm nghĩ về phong cách sáng tác của mỗi tác giả.
Công thức Kết bài 1: Cùng viết về + điểm chung + nhưng + tác phẩm A + đã + điểm khác biệt + còn + tác phẩm B + điểm khác biệt. Những trang thơ ấy không chỉ là tiếng lòng thiết tha, sự giãi bày và gửi gắm tâm tư của tác giả A và tác giả B mà còn là sợi dây kết nối những tâm hồn đồng điệu, là khúc ca sẽ mãi ngân lên. Đúng như quy luật tồn tại và giá trị bất hủ của thơ ca bao đời nay: “Từ bao giờ cho đến bây giờ, [...] thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế” (Hoài Thanh).
Công thức Kết bài 2: Thơ ca tạo nên những thanh âm thật đẹp trong cuộc sống. Thanh âm về điểm gặp gỡ cùng với điểm khác biệt của tác phẩm A (tác giả A) và tác phẩm B (tác giả B) đã khiến cho người đọc như được ru dưỡng tâm hồn thêm, như hiểu và yêu cuộc sống, yêu con người hơn. Thơ ca ôm con người vào lòng, con người lại gửi gắm xúc cảm vào thơ ca. Có lẽ chính vì vậy mà dù thời gian có trôi hoài, trôi mãi thì cũng không bao giờ làm phai tàn đi vẻ đẹp của những vần thơ…
- Xác định mục đích so sánh, đánh giá: Việc so sánh không phải để hướng tới mục đích xem tác phẩm nào có giá trị hơn tác phẩm nào mà để nhận ra những khác biệt, sự đa dạng trong cách nhìn và cảm thụ về đời sống; so sánh để làm rõ vấn đề văn học có trong tác phẩm.
- Xác định nội dung, tiêu chí so sánh: đề tài, chủ đề, thể loại, các biện pháp nghệ thuật, ngôn ngữ,...
- Đảm bảo cấu trúc chung của một bài nghị luận văn học, tính chính xác của các dẫn chứng, tính chặt chẽ của các lập luận lô gích và tính hình tượng, biểu cảm của ngôn ngữ,...