logo

[Top 30] Cảm nhận 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân

Tổng hợp các bài Cảm nhận 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân hay nhất kèm dàn ý. Mời các bạn học sinh và các thầy cô giáo cùng tham khảo nhé!


Dàn ý cảm nhận 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân


a. Mở bài

- Giới thiệu đoạn trích Cảnh ngày xuân và nội dung đoạn trích.

- Dẫn dắt sáu câu thơ cuối và nội dung của chúng.

Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dang tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.


b. Thân bài

* Khái quát về đoạn trích Cảnh ngày xuân:

- Đoạn thơ Cảnh ngày xuân là một bức tranh thiên nhiên tả cảnh mùa xuân đẹp với một không khí lễ hội rộn ràng và tưng bừng.

- Cảnh mùa xuân được Nguyễn Du tả theo trình tự không gian và thời gian.

+ Bức tranh chiều xuân:

Nên thơ, đượm buồn với cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về.

Bức tranh buổi chiều được miêu tả với nét đẹp dịu dàng, thanh nhẹ, nhuốm màu tâm trạng.

Bút pháp: tả cảnh ngụ tình.

⇒ Gợi lên tâm trạng tiếc nuối, luyến tiếc, thơ thẩn của chị em Kiều.

+ Hình ảnh chị em Thúy Kiều ra về sau ngày du xuân

Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dang tay ra về.

- Nghệ thuật:

+ Từ láy: “tà tà” gợi ra hình ảnh trời chiều, sự vận động chậm rãi như muốn níu kéo thêm khoảnh khắc tươi đẹp của lễ hội.

+ Từ “thơ thẩn” gợi trạng thái vô thức đầy vẻ tiếc nuối.

+ Không gian lúc chiều tà

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần theo phong cảnh có bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

=> Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu bắc ngang.

Cảnh vật dường như nhạt dần, lặng dần, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng.

Không gian mang dáng dấp nhỏ nhoi, bé hẹp, phảng phất buồn.

Cảm giác bâng khuâng khó tả của con người.

- Nghệ thuật:

+ Từ láy “Nao nao”, “tà tà”, “thanh thanh”: mang cảm giác phảng phất buồn của cảnh vật và tâm trạng con người.

+ Từ láy “Thơ thẩn”: sự bần thần, tiếc nuối, lặng buồn.

⇒ Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày du xuân đã tàn.

⇒ Vẻ đẹp tâm hồn của những nam thanh nữ tú tha thiết với niềm vui cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng.


c. Kết bài

Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ và sáu câu thơ cuối.

Cảm nhận 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân

Cảm nhận 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân - Mẫu số 1

      Khi nhắc đến Nguyễn Du, chúng ta không thể không nhắc tới tác phẩm kinh điển - Truyện Kiều. “Cảnh ngày xuân” là một đoạn trích nổi bật được trích trong tác phẩm. Trong đó sau câu thơ cuối đoạn trích là một trong những câu thơ nổi bật nhất không chỉ về nội dung mà còn về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình độc đáo.

      Nếu khung cảnh buổi sáng vào tiết thanh minh rạo rực và tràn đầy sức sống thì buổi chiều trong Cảnh ngày xuân lại được Nguyễn Du khắc họa với một nỗi buồn rất trầm lắng. Sáu câu thơ cuối trong đoạn trích càng khắc họa rõ hơn về điều này:

Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dang tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

     Phải công nhận rằng, Nguyễn Du rất có tài trong việc tả cảnh một cách lãng mạn và rất tự nhiên:

Tà tà bóng ngả về tây

     Từ láy “tà tà” đã mở ra một cảnh hoàn hôn nhẹ nhàng mà từ tốn với ánh nắng nhè nhẹ như đang ngả dần về phía Tây. Sự chậm rãi như muốn lưu luyến những hạt nắng cuối cùng trong ngày. Sự chậm rãi cùng bóng tối gần buông tạo ra cho con người ta một cảm giác buồn buồn khó có thể diễn tả nổi. Nỗi buồn vào những buổi chiều ấy còn đước miêu tả trong nhiều câu thơ, câu ca dao, tục ngữ như:

"Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều"

     Sau buổi đi hội và du xuân thì bức tranh buổi chiều đến cũng là lúc “Chị em thơ thẩn dang tay ra về”. Sự luyến tiếc của hai chị em Thúy Kiều được thể hiện qua hành động “thơ thẩn”. Thơ thẩn là hành động thể hiện sự nuối tiếc, lưu luyến chưa muốn rời xa, chưa muốn bữa tiệc vui tàn một cách nhanh chóng mà hụt hẫng đến vậy. Câu thơ mang ẩn ý muốn nói với chúng ta rằng bữa tiệc vui nào rồi cũng đến lúc tàn, dù vậy nhưng những kỉ niệm về nó sẽ không bao giờ phai nhòa mà luôn tồn tại trong tim chúng ta. Hãy hưởng thụ mọi niềm vui khi còn có thể.

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

          Bốn câu thơ này là bức tranh về cảnh vật đặc sắc đã được tác giả miêu tả một cách tài tình. Các cảnh vật đã tạo nên bức tranh buổi chiều là: ngọn tiểu khê, dòng nước uốn quanh, nhịp cầu, ghềnh nước. Cách miêu tả cảnh vật cùng việc kết hợp nó với những từ láy đã tạo nên bức tranh sống động mà đượm buồn. Các từ láy “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” đã làm dịu đi những nét đượm buồn trong cảnh sắc vốn dĩ đã ảm đạm đó. 

         Những cảm xúc vui vẻ, hào hứng đã bị thay thế khi cảnh chiều xuống. Cảnh vật vẫn vậy chỉ là thời gian và lòng người đã thay đổi. Đây chính là những cảm giác lo âu của những thiếu nữ khi sắp bước vào một cuộc đời lớn. Chẳng biết được phía trước sẽ diễn ra điều gì nhưng có thể đây sẽ là cuộc hội xuân cuối cùng được đi cùng nhau của hai chị em.

      Sáu câu thơ cuối tuy không dài nhưng cũng không ngắn đã cho thấy được bức tranh đẹp và ý nghĩa nhưng lại chan chưa những tâm trạng vô ngần. Chỉ với đoạn thơ ngắn, ta đã thấy được sự tài tình trong cách viết thơ của Nguyễn Du. Bằng ngòi bút điêu luyện cùng cách kết hợp nhiều bút pháp nghệ thuật, có thể nói đây là một áng thơ bất hủ của Nguyễn Du trong sự nghiệp của ông. 


Cảm nhận 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân - Mẫu số 2

Khác với khung cảnh rạo rực, vui tươi vào buổi sớm của tiết thanh minh, buổi chiều Cảnh ngày xuân lại được Nguyễn Du khắc họa nhuốm một màu man mác, trầm lắng. Sáu câu thơ cuối trong bài Cảnh ngày xuân vẽ lên một nỗi niềm ưu tư, một nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy dụng ý bậc cao của tác giả:

“Tà tà bóng ngả về Tây

Chị em thở thẩn dan tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”

Không còn những nô nức, hồ hởi như ở đoạn đầu, đến đây giọng thơ lắng xuống, chậm dãi từng khắc như kéo dài ra một nỗi buồn da diết mênh mang, lênh láng đến xót lòng. Trong cái bức tranh buổi chiều man mác ấy có sự đan xen hài hòa của 3 màu sắc hữu tình: đó là thời gian là cảnh vật và không thể thiếu đó là con người.

Nguyễn Du thật khéo léo, tài tình khi mở ra khung cảnh hoàng hôn trữ tình, xuyến xao thật nhẹ nhàng, thật tự nhiên:

“Tà tà bóng ngả về Tây”

“Tà tà” gợi ra những ánh nắng nhè nhẹ đang lả lướt buông về phía cuối phương trời xa. Một chút chậm rãi, một chút chùng chình như muốn níu lại những khoảnh khắc tươi đẹp cuối cùng còn sót lại của cảnh ngày xuân. Cái nhịp sống chậm rãi, vô tình, đỏng đảnh ấy khiến cho buổi chiều hiện về không mang màu sắc thê lương, buồn tủi, đớn đau quen thuộc như trong văn học cổ.

Những ánh nắng xế chiều buông xuống, khoác lên cảnh vật chiếc áo bảng lảng nỗi buồn:

“Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”

Tác giả đã vận dụng linh hoạt các cảnh vật: ngọn tiểu khê; dòng nước; dịp cầu, ghềnh nước để tô vẽ nên bức tranh cảnh trời chiều. Đây là những cảnh vật đặc sắc, có thể khắc họa được rõ nét nhất dòng chuyển dịch chậm rãi của thời gian. “Ngọn tiểu khê” đang in những bóng dài lên cung đường; dòng nước quẩn quanh uốn khúc, róc rách; dịp cầu cuối ghềnh bắc ngang,… tất cả như đang ánh lên một nỗi bâng khuâng, nuối tiếc, tiếng nấc rủ rỉ, trơ trọi, vướng mắc đến nao lòng.

Hàng loạt các từ láy được đặc tả như: “nao nao; thanh thanh; nho nhỏ”  làm dịu lại khung cảnh chiều tà; không đìu hiu; héo hắt mà vẫn thanh tao, lãng mạn. Dù nhỏ bé, cô quạnh, lững lờ nhưng vẫn đẹp, vẫn dịu nhẹ đến nao lòng người. Một nét vẽ với gam màu ấm lững lờ làm nức lòng bao lữ khách thanh minh.

Các cảnh vật được soi chiếu dưới ống kính từ gần đến xa, từ nhỏ bé đến to lớn. Một vài nét khắc họa lại vẽ được trọn vẹn một bức tranh xế chiều tuyệt đẹp đến thế. Thật huyền diệu và uyên bác biết chừng nào.

Một bức tranh muốn đẹp, muốn có hồn, muốn đậm sâu trong lòng độc giả thi không thể không có nhưng dáng dấp nhỏ bé của con người. Nguyễn Du sâu sắc vô cùng khi vận dụng khéo léo quy luật tả cảnh ngụ tình trong thơ văn xưa cổ: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Cảnh vật thời gian như nhuốm màu tâm trạng của lòng người tơ vương:

“Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

….

Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.”

Nếu như vào tiết trời sáng thanh minh tươi đẹp, dịu mát, căng tràn nhựa sống thì đến đây trời đã về cái cuối chiều, bữa tiệc vui nào cũng đến hồi kết. Con người trở về với cái chốn bình yên, với cái nhịp sống chậm rãi cuối ngày tàn. Những từ láy không chỉ miêu tả tâm trạng mà còn gợi nên lòng người. Hai chữ “thơ thẩn” bộc lộ trạng thái bần thần, nuối tiếc, lạc lõng, bơ vơ của chị em Kiều khi ra về. Hàng loạt các từ láy được đặt liên tiếp cuối mỗi câu thơ: “nao nao; thanh thanh; nho nhỏ” như một điệp khúc láy lại, xoáy sâu vào nỗi vô thức của dòng cảm xúc sâu lắng ấy. Một nỗi buồn da diết, miên man, kéo dài man mác.

Cảnh vật tĩnh lặng nhưng lòng người lại chẳng bình yên. Cụm từ “dang tay” được đăt chen ngang giữa dòng thơ như đang cố níu lại, cố tận hương nốt những dư vị ngọt ngào, đẹp đẽ cuối cùng còn sót lại của tiết Thanh minh tháng ba. Và phải chăng “dang tay” như cái ôm sẻ chia, cái ôm đồng cảm với nỗi niềm dạt dào của hai chị em Kiều.

Cảnh và người như giao hòa vào nhau, nâng đỡ nhau, tô điểm nhau làm nên một bức tranh cuối ngày thật đẹp, thật hòa quyện, khe khẽ sầu cay.

Đoạn thơ tuy ngắn nhưng lại được tác giả đầu tư công phu nhiều bút pháp nghệ thuật độc đáo, vừa cổ điển vừa hiện đại lại đậm chất thi vị. Nhịp thơ như dòng trôi nhẹ nhàng, lững lờ với các thanh trắc đan xen, nối nhau liên tiếp. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cổ điển đặc sắc. Tất cả đã vẽ nên một bức tranh ánh chiều chan chứa màu sắc; âm thanh; và cả hồn người lay động. Một bức tranh chân thực nhưng lại ý nghĩa, tâm trạng vô ngần. Bức vẽ cũng như cánh cửa mở ra những dự cảm bất lành, chông chênh trong cuộc đời Kiều về sau này.

Hội xuân kết thúc cũng là lúc Kiều trở về với cuộc sống như ngày thường? Nhưng liệu rằng Kiều có còn được “bình yên sống trọn một kiếp người” trốn khuê các? Liệu rằng cuộc sống của Kiều có êm đềm, tươi đẹp như sắc tài của nàng. Bức tranh Cảnh ngày xuân đặc biệt là sáu câu thơ cuối đã hé lộ phần nào cuộc đời của người con gái sắc sảo ấy. Những câu thơ như làm dậy lại một nỗi niềm xưa cũ đầy bâng khuâng luyến lưu đầy dư vị.


Cảm nhận 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân - Mẫu số 3

Cảm nhận 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân

Truyện Kiều là kiệt tác bất hủ của nền văn học dân tộc và thế giới. Nguyễn Du không những thành công ở phương diện nội dung mà còn đạt đến đỉnh cao trong nghệ thuật biểu hiện. Thủ pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến trình độ điêu luyện xưa nay hiếm có. Sáu câu thơ cuối trong đoạn trích Cảnh ngày xuân thể hiện sâu sắc tài năng nghệ thuật ấy.

“Tà tà bóng ngả về Tây

Chị em thở thẩn dan tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”

Cảnh vật được gợi tả nhẹ nhàng mà vô cùng tinh tế. Đất trời buổi chiều thanh thanh thật dễ chịu. Mọi âm thanh náo động của ngày hội xuân đã nhường chỗ cho sự yên ắng lạ thường. Âm thanh đã bị gạt lọc, chỉ còn lại sự im lặng khiến con người ta thêm phần dễ chịu.

Thời gian buổi chiều tà được khéo léo gợi tả qua hai chữ “tà tà” và hình ảnh “bóng ngả về tây”. Nguyễn Du đã sử dụng từ láy “tà tà” vừa gợi ra hình ảnh mặt trời đã xế chiều, lại vừa gợi ra nhịp vận động chậm rãi của thời gian. Con người như muốn níu kéo thêm một chút khoảnh khắc tươi đẹp của ngày xuân trước khi bầu trời chìm hẳn vào bóng đêm. Cụm từ “Bóng ngả về tây” khắc hoạ rõ ràng hơn bước đi chậm rãi của thời gian. Chữ “bóng” ở đây không phải chỉ cái bóng của con người trên mặt đất mà đó chính là mặt trời. Đó là lúc thời gian và không gian thay đổi, chiều muộn, ác tà buông xuống.

Trong cùng một câu thơ, Nguyễn Du đã dùng nhiều biểu tượng để nói về thời gian quả thực là có dụng ý. Bóng chiều lặng lẽ buông xuống trong khi cuộc vui vẫn còn sôi nổi, chị em Thuý Kiều chưa muốn rời gót ra về. Họ vẫn còn muốn lưu lại thêm chút nữa, muốn thời gian ngừng trôi. Thế nên, hình ảnh mặt trời “bóng ngả về tây” khiến họ thấy buồn buồn vô cớ.

Bức tranh vào lúc chiều tà nhẹ nhàng khép lại một ngày du xuân. Sau một ngày đi hội và du xuân, chị em Thúy Kiều “thơ thẩn giang tay ra về”. “Thơ thẩn” là tâm trạng bần thần, lưu luyến, tiếc nuối cảnh vật, tiếc nuối lễ hội đông vui đã không còn, tiếc nuối những phút giây gặp gỡ đầy ấn tượng. Họ tiếc cho ngày vui chóng tàn nên cứ “thơ thẩn” không vội về ngay.

Nguyễn Du đã vận dụng tài tình thủ pháp tả cảnh ngụ tình của thi pháp trung đại. Ông không dùng một từ ngữ miêu tả tâm trạng nào trong đoạn thơ, chỉ miêu tả chân thực, vậy mà có thể làm cho cảnh vật trở nên hư ảo, thấm đượm tâm trạng con người. Cảnh vật không còn cái không khí rộn ràng, sắc thái trong sáng và tinh khôi như ở bốn câu thơ đầu nữa. Khi con người đắm mình trong cảnh xuân đẹp đẽ, hội xuân rộn ràng thì thời gian cứ lặng lẽ trôi đi. Nó bất chấp khát vọng níu kéo thời gian của con người.

Câu thơ ẩn chứa một nỗi niềm sâu xa. Cảnh xuân dù có đẹp thế nào cũng có lúc tàn phai. Hội xuân dẫu có vui thế nào rồi cũng sẽ tan rã. Một ngày chơi xuân ngắn ngủi gợi lên sự hối hả của lòng người mong muốn tận hưởng được hết cái đẹp trước khi nó tàn phai, khô héo.

Cảnh vật lúc về chiều không còn nhộn nhịp, rộn ràng như buổi sớm nữa. Tất cả bỗng trở nên nhỏ nhắn, mềm mại. lắng lại, nhạt dần, hoang vắng, êm ả, yên tĩnh hơn với hình ảnh dòng suối nhỏ:

“Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”

Bốn bề thanh thanh, yên ắng. Dòng suối êm ả chảy qua những hòn đá nhỏ “nao nao” mặt nước. “Nao nao” là trạng thái của dòng nước đồng cảm với tâm trạng con người. Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày xuân đang còn mà nhiều linh cảm về điều sắp xảy ra đã xuất hiện (Kiều gặp mộ Đạm Tiên, gặp chàng thư sinh Kim Trọng)

Dịp cầu nho nhỏ xinh xinh bắc ngang dòng suối tạo nên vẻ đẹp thơ mộng. Các từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Cảnh đi vào chiều sâu của sự yên tĩnh, vắng lặng.

Nhà thơ đã không dùng từ chảy để miêu tả dòng nước mà chỉ gợi nên sự chảy ấy bằng từ “nao nao” vô cùng tinh tế. Đây là bức tranh tả cảnh ngụ tình mẫu mực, đặc sắc trong “Truyện Kiều”. Mỗi bức tranh thiên nhiên cũng là một bức tâm tình đầy xao xuyến. Nước luôn là hình ảnh biểu hiện cho dòng chảy của thời gian. Không có tiếng nước chảy. Dòng nước chuyển lưu âm thầm nhưng vội vã. Hai từ “nao nao” gợi lên tâm trạng buồn buồn của con người. Một nỗi buồn vô cớ. Một nỗi bồn chồn chợt đến từ đâu đó không thể lí giải được. Giống như Nguyễn Du đã từng nói:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Niềm háo hức, say mê của con người sáng nay cũng đã phai nhạt khi thời gian phủ xuống. Cảnh không buồn nhưng thời gian gợi buồn. Sắc xuân vẫn tươi nhưng cảnh vật yên ắng khiến cho lòng người thổn thức, nôn nao. Đó cũng là những cảm giác lo âu của tâm hồn thiếu nữ khi sắp bước vào cuộc đời lớn. Sau cuộc hội xuân năm nay, có thể các nàng sẽ phải thực hiện nghĩa vụ đối với gia đình. Có thể các nàng sẽ phải rời xa gia đình dựng xây tổ ấm. Có thể, điều đó khiến các nàng bâng khuâng. Chưa biết điều gì sẽ xảy đến. Có thể đây sẽ là cuộc hội xuân cuối cùng lúc còn xuân trẻ.

Thủ pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc được thi nhân nhân vận dụng tinh tế. Mùa xuân đến rồi đi. Hội xuân hợp rồi tan. Ý thơ mở rồi đóng, đóng rồi lại mở một cách tự nhiên, linh hoạt đã dẫn độc giả đến với câu chuyện về cuộc đời nàng Kiều một cách chân thực, sống động và hợp lí.

Lời thơ bộc lộ cảm xúc nuối tiếc, vương vấn, bịn rịn của hai nàng Kiều khi phải rời khỏi cái náo nhiệt, rộn rã, tươi vui của không khí lễ hội. Với việc thể hiện những nét tâm trạng như thế, nhà thơ đã thể hiện chân thực vẻ đẹp tâm hồn của người con gái vốn sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”. Nay lần đầu được tiếp xúc với bầu không khí tươi vui, náo nhiệt chốn đông người không khỏi tránh được cảm giác hụt hẫng, luyến tiếc khi phải rời xa là điều hiển nhiên.

6 câu thơ cuối đoạn trích Cảnh ngày xuân là bức tranh thiên nhiên lễ hội, mùa xuân tươi đẹp trong sáng, là một trong những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đoạn trích đã thể hiện bút pháp tả cảnh giàu chất tạo hình, chuyển từ miêu tả sang tả cảnh ngụ tình trong nghệ thuật miêu tả và ngôn ngữ trong sáng giàu chất thơ của Nguyễn Du.


Cảm nhận 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân - Mẫu số 4

Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ có giá trị lớn về mặt nội dung mà còn thể hiện được bút pháp nghệ thuật tài tình của tác giả. Đặc biệt, sáu câu thơ cuối trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã cho thấy được bút pháp tả cảnh ngụ tình xuất sắc của đại thi hào Nguyễn Du.

“Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dang tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Sáu câu thơ là cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về –  một bức tranh chiều xuân nên thơ và đượm buồn. Bức tranh ấy được tác giả miêu tả với những nét dịu dàng, chậm rãi, nhuốm màu tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của con người. Với bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy độc đáo, Nguyễn Du đã gợi lên tâm trạng lưu luyến, tiếc nuối của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay hội xuân để ra về:

“Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dang tay ra về”

Câu thơ ẩn chứa một nỗi buồn sâu xa. Từ láy “tà tà” với nhịp điệu chậm rãi vừa gợi lên hình ảnh mặt trời đang ngả bóng dần vừa gợi lên sự tiếc nuối rằng chị em Thúy Kiều chưa muốn ra về, muốn níu kéo thêm chút khoảnh khắc tươi đẹp của ngày xuân. Từ “thơ thẩn” được sử dụng rất đắt giá, thể hiện sự luyến tiếc khôn nguôi.

“Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh”

Cảnh vật không còn rộn ràng, tràn đầy sức sống giống như ở bốn câu thơ đầu tiên của bài thơ nữa mà đã nhuốm tâm trạng của con người. Khi con người đắm chìm trong cảnh xuân đẹp đẽ thì cũng là lúc thời gian lặng lẽ trôi đi. Cảnh xuân dù có đẹp đến mấy rồi cũng sẽ tàn phai. Trời đã xế chiều và cuộc du xuân cũng đã kết thúc, tâm hồn của con người dường như cũng đồng điệu với cảnh vật. Cảnh vật vẫn mang một nét đẹp dịu dàng nhưng chuyển động chậm dần, mang dáng dấp nhỏ bé, phảng phất một nỗi buồn. Những từ láy được sử dụng rất hiệu quả: “tà tà”, “nao nao”, “thanh thanh” không chỉ gợi cảnh mà còn bộc lộ tâm trạng tiếc nuối của con người. Cảnh và người dường như có sự đồng điệu. Khi mà con người lưu luyến khôn nguôi thì khung cảnh cũng theo đó mà nhỏ đi như để phù hợp với tâm trạng con người: “ngọn tiểu khê” - dòng suối nhỏ hay như chiếc cầu be bé ở “cuối ghềnh” phía xa xa. Dường như có một linh cảm điều gì đó sắp xảy ra:

“Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Bốn bề trở nên yên ắng, tĩnh lặng. “Nao nao” là trạng thái của dòng nước dường như để đồng cảm với tâm trạng con người với một nỗi buồn khó tả. Dịp cầu nhỏ bé xinh xinh bắc ngang qua dòng suối tạo nên vẻ đẹp bình yên và thơ mộng. Nguyễn Du dùng từ “nao nao” đầy tinh tế. Tả cảnh nhưng cũng để nói lên tâm trạng con người với một nỗi buồn vô cớ chẳng lí giải được. Cũng giống như những câu thơ mà Nguyễn Du từng viết:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Với sáu câu thơ cuối trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo. Miêu tả cảnh hay cũng chính là gợi lên tâm trạng của con người. Cảnh không còn náo nhiệt, sôi động nữa mà trở nên dịu dàng, yên ả cũng giống như tâm trạng luyến tiếc, bâng khuâng của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay với hội xuân.

---------------------------

Trên đây Toploigiai đã cùng các bạn Cảm nhận 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân Hi vọng qua bài viết, các bạn sẽ tiếp thu thêm được nhiều kiến thức và đạt nhiều điểm cao trong học tập nhé!

icon-date
Xuất bản : 23/11/2022 - Cập nhật : 15/08/2023