logo

Ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận bình quân

icon_facebook

Lợi nhuận bình quân là tổng lợi nhuận chia cho sản lượng hoặc tổng lợi nhuận trong mỗi thời kỳ chia cho số thời kỳ. Đây là cách giúp doanh nghiệp xác định được tỷ suất lợi nhuận đạt được trên mỗi đơn vị sản phẩm được sản xuất hay bán ra thị trường. Vậy “Ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận bình quân là gì?”. Cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé!


Câu hỏi: Ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận bình quân là gì?

Trả lời: 

- Việc hình thành lợi nhuận bình quân chỉ rõ sự tranh giành nhau về mặt quyền lợi giữa các nhà tư bản. Vạch rõ toàn bộ giai cấp tư sản tham gia bóc lột toàn bộ giai cấp công nhân, giai cấp công nhân phải đấu tranh với tư cách là một giai cấp, đấu tranh kinh tế kết hợp chính trị.

- Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất che giấu nguồn gốc giá trị thặng dư, làm cho người ta nhầm tưởng, cứ đầu tư một lượng tư bản như nhau thì thu được lợi nhuận như nhau, dẫn đến quan điểm tư bản sinh lợi nhuận.

- Sự hình thành lợi nhuận bình quân cho thấy cạnh tranh gay gắt có tác dụng ngăn cản độc quyền, mặt khác, cạnh tranh thôi thúc các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

- Cạnh tranh dẫn đến đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, giá cả hàng hóa rẽ hơn, ngành nghề được mở rộng, sản phẩm mới ngày càng tăng.


Kiến thức vận dụng để trả lời câu hỏi


1. Sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân

a. Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường

- Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hoá, nhằm giành những điều kiện thuận lợi nhất trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch.

- Cạnh tranh trong nội bộ ngành thông qua các biện pháp: Cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao NSLĐ, chất lượng hàng hoá... làm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá so với giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch.

- Kết quả của cạnh tranh nội bộ ngành là hình thành nên giá trị xã hội (giá trị thị trường) của từng loại hàng hoá. Chúng ta biết rằng, trong các đơn vị sản xuất khác nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện kỹ thuật, tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề công nhân…) khác nhau, cho nên hàng hoá có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hoá phải bán theo giá trị xã hội – giá trị thị trường.

- Giá trị thị trường không chỉ chịu sự tác động của giá trị xã hội, mà còn chịu tác động của giá trị cá biệt của nhà sản xuất cung ứng đại bộ phận một loại hàng hoá cho thị trường. Theo C.Mac: “một mặt phải coi giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó, mặt khác phải coi giá trị thị trường là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong tổng số những sản phẩm của khu vực này”.

- Như vậy, giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó. Hay là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất và chiếm đại bộ phận hàng hoá đó trên thị trường.

b. Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân

- Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.

- Do điều kiện sản xuất không giống nhau giữa các ngành sản xuất trong xã hội, vì thế lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của họ thu được cũng không giống nhau nên các nhà tư bản phải chọn ngành nào có tỷ suất lợi nhuận cao nhất để đầu tư.

- Giả sử có ba ngành sản xuất khác nhau, tư bản của mỗi ngành đều bằng 100, tỷ suất giá trị thặng dư đều bằng 100% tốc độ chu chuyển của tư bản ở các ngành đều như nhau. Nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản ở từng ngành khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

Ví dụ:

Ngành sản xuất

Chí phí

sản xuất

m’

(%)

 

Khối lượng

(m)

p’

(%)

Cơ khí

80 c + 20 v

100

20

20

Dệt

70 c + 30 v

100

30

30

Da

60 c + 40 v

100

40

40

- Như vậy, cùng một lượng tư bản đầu tư, nhưng do cấu tạo" hữu cơ khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Nhà tư bản ở ngành có tỷ suất, lợi nhuận thấp không thể bằng lòng, đứng yên trong khi những ngành khác có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Trong ví dụ trên, ngành da là ngành cỏ cấu tạo hữu cơ của tư bản thấp nhất nhưng tỷ suất lợi nhuận lại là cao nhất, ngược lại, ngành cơ khí, ngành có cấu tạo hữu cơ của tư bản cao nhất nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp nhất. Vì vậy, tư bản ở ngành cơ khí, ngành dệt sẽ tự phát di chuyển sang ngành da, làm cho sản phảm của ngành da nhiều lên (cung lớn hơn cầu), do đo giá cả hàng hóa ở ngành da sẽ hạ xuống thấp hơn giá trị của nó, và tỷ suất lợi nhuận ngành này giảm xuống. Ngược lại, ngành cơ khí là ngành mà cả xã hội đều muốn né tránh vì tỷ suất lợi nhuận thấp nhất nên sản phẩm của ngành cơ khí sẽ giảm đi (cung thấp hơn cầu), nên giá cả sẽ cao hơn giá trị, và do đó tỷ suất lợi nhuận ở ngành cơ khí sẽ tăng lên. Như vậy, do hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, làm cho ngành có cung (hàng hóa) lớn hơn cầu (hàng hóa) thì giá cả giảm xuống, còn ngành có cầu (hàng hóa) lớn hơn cung ( hàng hóa) thì giá cả tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi cả tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Sự tự do di chuyển tư bản này chỉ tạm dừng lại khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các ngành đều xấp xỉ bằng nhau. Kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận bình quân

- Tỉ suất lợi nhuận bình quân là con số trung bình của tất cả các tỉ suất lợi nhuận khác nhau hay tỉ suất lợi nhuận bình quân là tỉ số theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản xã hội.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận bình quân

- Khi hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân có thể tính được lợi nhuận bình quân từng ngành:  

Ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận bình quân

- Trong đó K là tư bản ứng trước của từng ngành. Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư vào các ngành khác nhau. Nó chính là lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được căn cứ vào tổng tư bản đầu tư lợi nhuận với tỉ suất lợi nhuận bình quân, không kể cấu thành hữu cơ của nó như thế nào.

>>> Xem thêm: Các chiến lược cạnh tranh tổng quát


2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận bình quân

Ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận bình quân là:

- Việc hình thành lợi nhuận bình quân chỉ rõ sự tranh giành nhau về mặt quyền lợi giữa các nhà tư bản.

- Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất che giấu nguồn gốc giá trị thặng dư.

- Cạnh tranh gay gắt có tác dụng ngăn cản độc quyền.

- Thúc các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

- Cạnh tranh dẫn đến đa dạng hóa chủng loại hàng hóa.

icon-date
Xuất bản : 16/05/2022 - Cập nhật : 16/05/2022

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads