logo

Vì sao nhà thơ lại miêu tả Thúy Vân trước Thúy Kiều sau

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa vẻ đẹp, tài năng của chị em Thúy Kiều, cũng như dự cảm của Nguyễn Du về kiếp người tài hoa bạc mệnh. Để biết được Vì sao nhà thơ lại miêu tả Thúy Vân trước Thúy Kiều sau, mời các bạn theo dõi nội dung dưới đây


Vì sao nhà thơ lại miêu tả Thúy Vân trước Thúy Kiều sau

Trả lời:

Tác giả miêu tả Thúy Vân trước rồi mới đến Thúy Kiều bởi vì: tác giả muốn làm nổi bật vẻ đẹp ngoại hình, tài năng và tâm hồn của Kiều so với Vân. Hai từ “càng”, “hơn” điệp ý so sánh, muốn nhấn mạnh sự nổi bật, sự hơn hẳn về tâm hồn, vượt trội về tài sắc của Kiều so với Vân.

Vì sao nhà thơ lại miêu tả Thúy Vân trước Thúy Kiều sau

>>> Xem thêm: Trong hai bức chân dung Thúy Kiều và Thúy Vân, em thấy bức chân dung nào nổi bật hơn, vì sao?


Khái quát về tác giả, tác phẩm Chị em Thúy Kiều


1. Tác giả Nguyễn Du

- Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.

- Quê: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

- Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng.

- Cuộc đời:

+ Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX.

+ Từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều → vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.

- Sự nghiệp văn học

+ Sáng tác bằng chữ Hán: gồm ba tập thơ là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục.

+ Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (thường gọi là Truyện Kiều), Văn chiêu hồn.


2. Tìm hiểu đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”

a) Vị trí đoạn trích

Đoạn trích thuộc phần 1 “Gặp gỡ và đính ước” của Truyện Kiều, trong mạch thơ giới thiệu về gia đình Vương ông, Nguyễn Du tập trung bút lực giới thiệu về hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều.

b) Bố cục

4 phần:

- Đoạn 1 (4 câu đầu): giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều.

- Đoạn 2 (4 câu tiếp): gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân.

- Đoạn 3 (12 câu tiếp): gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều.

- Đoạn 4 (4 câu cuối): Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em.

c) Giải nghĩa các từ ngữ

- Tố Nga: chỉ người con gái đẹp.

- Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao.

- Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.

- Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như trăng tròn; nét ngài nở nang: ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Tiếng Việt có câu “mắt phượng mày ngài”.

- Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về người phụ nữ).

- Làn thu thuỷ: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp thanh thoát như nét núi mùa xuân.

- Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.

d) Giá trị nội dung

Đoạn trích đã khắc họa rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thúy Kiều, ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thúy Kiều, đây là biểu hiện cho cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du.

e) Giá trị nghệ thuật

- Đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.

- Sử dụng thi liệu có tính ước .

- Bút pháp gợi tả chân dung tài tình: Ngoại hình → tính cách → số phận.

- Kết hợp khéo léo, tài tình ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học.


Cảm Nhận Vẻ Đẹp Của Nhân Vật Thúy Vân Trong Đoạn Trích Chị Em Thúy Kiều - Mẫu số 1

Truyện Kiều tác phẩm nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du. Tác phẩm viết về mười lăm năm "đoạn trường" của Thúy Kiều, người con gái tài tài sắc nhưng có số phận truân chuyên, bạc mệnh. Không chỉ lên án xã hội đen tối, đồng cảm, bênh vực với số phận bất hạnh của con người, tài năng và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du còn được thể hiện qua những trang thơ khắc họa vẻ đẹp, tài năng, nhân cách của con người. Chị em Thúy Kiều đoạn trích thể hiện rõ nét bút pháp tài hoa, tấm lòng trân trọng của nhà thơ với vẻ đẹp "mười phân vẹn mười" của chị em Thúy Kiều, Thúy Vân. Bên cạnh nhân vật trung tâm là Thúy Kiều, vẻ đẹp của Thúy Vân dưới ngòi bút của Nguyễn Du cũng hiện lên thật sống động, ấn tượng.

Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Du đã có những giới thiệu khái quát về nguồn gốc, địa vị và vẻ đẹp xuất chúng, hơn người của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân.

"Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân

Mai cốt cách tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"

Thúy Vân là người con thứ trong gia đình Vương viên ngoại, em gái của Thúy Kiều. "Ả tố nga" dùng để chỉ những người con gái đẹp. Thông qua việc sử dụng những hình ảnh ước lệ tượng trưng kết hợp với đảo ngữ, nhà thơ Nguyễn Du đã mang đến cho người đọc những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp của cả hai chị em. Thúy Vân cùng chị của mình đều là những người con gái có tài sắc hơn người, cốt cách nhẹ nhàng, thanh tao như mai, tâm hồn trong sáng, thanh khiết tựa tuyết. Đều sở hữu nhan sắc xuất chúng "mười phân vẹn mười", thế nhưng của Thúy Vân và Thúy Kiều đều mang những vẻ đẹp riêng.

Vẻ đẹp của Thúy Vân được nhà thơ Nguyễn Du tập trung miêu tả trong bốn câu thơ sau của đoạn trích.

Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da"

"Trang trọng" gợi ra vẻ đẹp sang trọng, quý phái. Thúy Vân hiện lên trong trang thơ của Nguyễn Du với vẻ đẹp dịu dàng, nền nã của một tiểu thư đài các. Sử dụng những hình ảnh ước lệ tượng trưng quen thuộc trong thơ ca cổ "hoa", "ngọc", "mây", "tuyết" kết hợp với biện pháp liệt kê, nhà thơ đã phác họa đầy sống động chân dung, vẻ đẹp của Thúy Vân. Đó là một người con gái xinh đẹp, dịu dàng với khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu tựa vầng trăng "khuôn trăng đầy đặn", lông mày dài, đen đậm như con ngài "nét ngài nở nang", nụ cười của nàng tươi tắn, rạng rỡ như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Bên cạnh khuôn mặt, nét ngài, nụ cười, giọng nói thì vẻ đẹp của Thúy Vân còn được đặc tả thông qua hình ảnh mái tóc và làn da:

"Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da"

Vẻ đẹp của Thúy Vân như một "tuyệt tác" của tạo hóa, sự hoàn hảo của ngoại hình khiến những vẻ đẹp của tự nhiên như mây, tuyết cũng phải "thua", "nhường". Mái tóc của Thúy Vân bồng bềnh, mềm mại hơn mây, làn da tươi sáng, mịn màng hơn tuyết. Ở đây, nhà thơ Nguyễn Du đã rất tinh tế khi lấy tự nhiên để làm nổi bật lên vẻ đẹp của con người. Mây và tuyết đều là những hình ảnh trong tự nhiên, biểu tượng cho những thứ đẹp đẽ, cao quý. Câu thơ "Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da" không chỉ gợi ra ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp mỹ lệ sánh ngang với tự nhiên của Thúy Vân mà còn gợi ra sự hài hòa, cân đối. Vẻ đẹp của Thúy Vân xuất chúng, hơn người nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ của tự nhiên, phù hợp với quan niệm thẩm mĩ trong xã hội phong kiến xưa. Hai từ "thua", "nhường" được sử dụng thật khéo, nó không chỉ được dùng để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, đó là vẻ đẹp khiến mây phải thua, tuyết phải nhường mà còn góp phần dự báo cho cuộc đời, số phận của nàng. Sự dịu dàng, phúc hậu trong ngoại hình, tính cách mang đến dự cảm về tương lai bình yên, êm đềm, không có những sóng gió, thăng trầm của nàng.

Như vậy, chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, nhà thơ Nguyễn Du đã thành công dựng lên bức chân dung tuyệt mĩ của Thúy Vân. Đó là một thiếu nữ trong độ tuổi trăng tròn cùng vẻ đẹp thanh cao, đài các. Dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ, người đọc không chỉ ấn tượng với vẻ đẹp hoàn hảo, mỹ lệ của Thúy Vân mà còn có những dự cảm tốt đẹp về tương lai, cuộc sống êm đềm, bình đạm của nàng sau này.


Cảm Nhận Vẻ Đẹp Của Nhân Vật Thúy Vân Trong Đoạn Trích Chị Em Thúy Kiều - Mẫu số 2

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam – danh nhân văn hóa thế giới. “Truyện Kiều” là kiệt tác số 1 của Nguyễn Du, kết tinh những thành tựu về nội dung và nghệ thuật. Trong “Truyện Kiều”, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du, mỗi nhân vật đều hiện lên một chân dung hết sức sinh động, gợi cảm. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều qua bút pháp ước lệ tượng trưng.

Mở đầu đoạn trích, tác giả giới thiệu và gợi tả vẻ đẹp của hai chị em:                             

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
 

Trong những câu thơ trên, vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều được xếp vào hàng tuyệt thế giai nhân, cả hai chị em đều là những “ả tố nga” tức là những cô gái đẹp. Bằng bút pháp ước lệ (lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người), ta thấy chị em Kiều đều có vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao như “mai”, có tâm hồn trong trắng như “ tuyết”. Cả hai chị em đều đẹp “ mười phân vẹn mười” nhưng mỗi người lại có một vẻ đẹp riêng, không hề lẫn lộn.

Vẻ đẹp của Thúy Vân được gợi tả ở 4 câu thơ tiếp theo. Câu mở đầu vừa giới thiệu vừa khái quát đặc điểm nhân vật: “Vân xem trang trọng khác vời”. Hai chữ “ trang trọng” nói lên vẻ đẹp cao sang, quí phái của Vân. Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của người thiếu nữ được so sánh với hình tượng thiên nhiên, với những thứ cao đẹp trên đời:

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. 

Vẫn là bút pháp nghệ thuật ước lệ với những hình tượng quen thuộc nhưng khi tả Vân, ngòi bút của Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn lúc tả Kiều. Thứ nhất là cụ thể trong thủ pháp liệt kê: khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói. Thứ hai là cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ để làm nổi bật vẻ đẹp riêng của đối tượng miêu tả: “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan trang”. Mỗi phép so sánh, ẩn dụ đều nhằm thể hiện vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quí phái của người thiếu nữ. Hình ảnh “khuôn trăng đầy đặn” gợi tả khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn như mặt trăng. Hình ảnh “nét ngài nở nang” gợi tả đôi lông mày sắc nét, đậm như con ngài. Hình ảnh “hoa cười”, “ngọc thốt” góp phần gợi tả miệng cười của Thúy Vân tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc. Hình ảnh “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” gợi tả mái tóc đen mượt mà, óng ả hơn mây; làn da trắng, mịn màng hơn tuyết. Như vậy, chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Thúy Vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh “mây thua”, “tuyết nhường” nên nàng sẽ có cuộc đời bình lặng suôn sẻ.

Thúy Vân đã đẹp,  Thúy Kiều còn đẹp hơn. Vẻ đẹp của Thúy Vân được miêu tả trước để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều. Có thể coi đây là thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Nếu như Thúy Vân được miêu tả với vẻ đẹp hoàn hảo thì vẻ đẹp của Thúy Kiều còn vượt lên trên cái hoàn hảo ấy. Qua vẻ đẹp của Thúy Vân mà người đọc hình dung ra vẻ đẹp của Thúy Kiều.

Cũng như lúc tả Thúy Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật: “Kiều càng sắc sảo, mặn mà”. Náng sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn, tình cảm. Gợi ta vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng hình tượng nghệ thuật ước lệ:               

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi, tạo một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Đáng lưu ý là khi họa bức chân dung Thúy Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh về tâm hồn và trí tuệ. Cái sắc sảo của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn đều liên quan đến đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” – làn nước mùa thu gợn sóng gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. Còn hình ảnh ước lệ “nét xuân sơn” – nét núi mùa xuân lại gợi lên đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung. Khi tả Thúy Vân, tác giả chủ yếu gợi tả nhan sắc mà không thể hiện cái tài, cái tình của nàng. Thế nhưng, khi tả Kiều, nhà thơ tả sắc một phần còn dành đến hai phần để tả tài năng. Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng, theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến gồm đủ cả: cầm, kì, thi, họa. Đặc biệt, tài đánh đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu, vượt lên trên mọi người: “Cung thương làu bậc ngũ âm. Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Nhấn mạnh cái tài của Thúy Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn bạc mệnh mà Thúy Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Như vậy, vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự hội tụ của cả sắc – tài – tình. Tác giả đã dùng câu thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để đặc tả giai nhân. Sắc đẹp của Thúy Kiều có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành mất nước. Chân dung Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét, đố kỵ “hoa ghen”, “liễu hờn”, báo hiệu số phận của nàng gặp nhiều gian truân, đau khổ.

Vẻ đẹp về nhân cách, tâm hồn của chị em Thúy Kiều được khẳng định ở 4 câu thơ cuối của đoạn trích:

Phong lưu rất mực hồng quần,

 Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai. 

Chị em Thúy Kiều được sống trong cảnh “trướng rủ màn che”, chưa từng hò hẹn với một ai. Điều đó thể hiện phẩm hạnh cao đẹp của hai nàng thật đáng trân trọng, đáng ngợi ca. Tóm lại, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã gợi tả rất sinh động bức chân dung của hai chị em Thúy Kiều. Băng bút pháp ước lệ, tượng trưng gợi tả tài sắc chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao vẻ đẹp của con người, mang đậm cảm hứng ngưỡng mộ, ngợi ca, thể hiện tính nhân văn cao cả.

icon-date
Xuất bản : 02/06/2022 - Cập nhật : 02/06/2022