Đề bài: Tóm tắt về tác giả Hồ Xuân Hương
Trả lời:
- Nhà thơ Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 tại Tỉnh Nghệ An, nước Việt Nam. Bà sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam. Bà sinh thuộc cung (chưa rõ), cầm tinh con (giáp) rồng (Nhâm Thìn 1772). Hồ Xuân Hương xếp hạng nổi tiếng thứ 1607 trên thế giới và thứ 2 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng.
- Theo các tài liệu lưu truyền, Hồ Xuân Hương (chưa rõ năm sinh năm mất) quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long. Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng ở gần Hồ Tây (Hà Nội bây giờ) lấy tên là Cổ Nguyệt Đường.
- Cuộc đời Hồ Xuân Hương lận đận, nhiều nỗi éo le ngang trái: hai lần lấy chồng nhưng đề là lẽ, để đến cuối cùng vẫn sống một mình, cô độc.
- Hồ Xuân Hương đi nhiều nơi và thân thiết với nhiều danh sĩ, có người nổi tiếng như Nguyễn Du…
- Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là hiện tượng rất độc đáo: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng.
- Nổi bật trong sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ
=> Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa Thơ Nôm”.
- Những sáng tác của Hồ Xuân Hương không chỉ có giá trị sâu sắc về mặt nội dung mà còn cho thấy phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo. Ở thơ của Hồ Xuân Hương có tình yêu về gia đình, quê hương, đất nước. Tuy nhiên, nét đặc sắc nhất làm nên thương hiệu của Hồ Xuân Hương đó là những bài thơ viết về những người phụ nữ có số phận bất hạnh, nổi trôi trong xã hội phong kiến. Phải chăng viết về cuộc đời họ cũng chính là viết về cuộc đời bà. Thơ Hồ Xuân Hương là sự kết hợp giữa sự hóm hỉnh sâu cay, nỗi đau cuộc đời và sự ngạo nghễ trong tinh thần. Đọc thơ của bà thấy sự táo bạo với nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo và những nét văn hóa dân gian thú vị. Các bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt hoặc thất ngôn bát cú với ngôn ngữ mộc mạc và giản dị.
- Nổi bật trong sáng tác của Hồ Xuân Hương có bài thơ Tự tình, là tiếng nói của những thân phận, những khao khát của một kiếp người thấp cổ bé họng. Bài thơ đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt, khát khao sống tự do và hạnh phúc của người phụ nữ. Tự tình còn là nỗi buồn và tâm sự của nhà thơ về số phận lẻ loi của mình, bà khao khát có được hạnh phúc, được yêu thương từ bậc quân tử.
Nét phóng túng và tiềm ẩn trong thơ của Hồ Xuân Hương luôn gây nguồn cảm hứng vô tận cho hậu thế.
- Hầu hết các thành phố của Việt Nam đều có con phố chính mang tên Bà. Tên bà còn được đặt tên cho một hồ nước ở trung tâm Đà Lạt.
- Tác phẩm "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương được lựa chọn dạy trong môn Ngữ văn của các trường Trung học cơ sở tại Việt Nam.
- Tác phẩm "Tự tình II" được lựa chọn để dạy trong chương trình Ngữ văn 11 tại Việt Nam.
- Một số tác phẩm của Bà được dịch sang tiếng Anh trong cuốn Tinh hoa mùa xuân của John Balaban (Copper Canyon Press, 2000, ISBN 1 55.659 148 9).
Ngoài ra, cùng Top lời giải tham khảo bài văn mẫu về hình tượng người phụ nữ trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương nhé
Chứng minh nhận định: “Không chỉ mang nặng một nỗi niềm, bánh trôi nước còn lắng đọng một cái nhìn...”
Hình tượng người phụ nữ trong xã hội xưa đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của biết bao người cầm bút. Bên cạnh việc ngợi ca vẻ đẹp thì các tác giả chủ yếu đi sâu khai thác bi kịch thân phận của họ. "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương cũng không nằm ngoài xu hướng chung ấy. Bàn về bài thơ này, có ý kiến cho rằng: "Không chỉ mang nặng một nỗi niềm, Bánh trôi nước còn lắng đọng một cái nhìn Xuân Hương về phận đàn bà trong xã hội xưa cũ".
Đó là một nhận định vô cùng xác đáng. Nếu chỉ hiểu đây là bài thơ viết về một món ăn dân tộc thì e rằng cách hiểu ấy quá đơn thuần. Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ tài ba của nền văn học Việt Nam và những tác phẩm của bà cũng mang đậm màu sắc, phong cách của "bà chúa thơ Nôm" (Xuân Diệu). Bà thường vịnh các vật bé nhỏ như quả mít, quả cau, miếng trầu hôi,...để thông qua đó khắc họa thân phận hèn mọn, số phận bạc bẽo của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong "Bánh trôi nước", bà đã viết:
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son".
Hồ Xuân Hương đã miêu tả hình dáng, cách làm một món ăn dân tộc bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu. "Trắng", "tròn" là từ chỉ màu sắc, hình dạng của bánh trôi, đồng thời cũng là ẩn dụ của vẻ đẹp hình thể người phụ nữ. Đó là người phụ nữ có vẻ đẹp gợi cảm, ưa nhìn. Bài thơ mở đầu bằng hai tiếng "Thân em" vô cùng quen thuộc. Ta đã từng bắt gặp hàng loạt những câu ca dao than thân bắt đầu bằng cụm từ này:
"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai";
hay:
"Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu"?
Phải chăng tác giả đã có dụng ý khi có cách mở đầu bài thơ như vậy? Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa chưa bao giờ nhận được sự đề cao và tôn trọng của xã hội. Tuy có vẻ đẹp, có phẩm chất nhưng họ lại phải chịu sự xô đẩy của cuộc đời:
"Bảy nổi ba chìm với nước non"
Từng viên bánh trôi chìm nổi trong nước chuyển động không ngừng nghỉ, khi mới thả bánh vào thì chúng chìm xuống đáy nồi nhưng khi chín chúng lại nổi lên trên mặt nước. Điều ấy khiến bạn đọc liên tưởng đến sự long đong, trôi dạt của cuộc đời người phụ nữ. Số phận của những con người yếu đuối, mỏng manh ấy cũng không khác gì cánh bèo "ngược xuôi xuôi ngược theo chiều nước trôi" (Ca dao). Cuộc đời họ phải chịu những vùi dập của hoàn cảnh, số phận mà không có cách nào chống trả, thoát ra khỏi sự bất công đó.
Họ nương theo số phận nhưng số phận lại không vì thế mà khoan dung với họ:
"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn"
Viên bánh trôi rắn hay nát, cứng hay nhão là do tay người nhào bột, nặn bánh. Người phụ nữ sung sướng hay khổ đau phụ thuộc vào sự may rủi và hoàn cảnh sống mà họ rơi vào. Số phận đã sắp đặt họ sinh ra với nhan sắc đẹp hay xấu, hoàn cảnh gia đình nghèo hay giàu có, lấy được người chồng tốt tính hay lấy phải kẻ gia trưởng, vũ phu. Bàn tay của tạo hóa đã sắp đặt, lập ra một trình tự cho cuộc đời của họ. Sống trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, thân phận người phụ nữ trở nên rẻ rúng, tầm thường. Họ không có quyền quyết định cuộc đời của mình mà luôn phải chịu sự phụ thuộc vào người đàn ông. Trong xã hội đầy rẫy bất công ấy, người phụ nữ không có tiếng nói, họ không có quyền lên tiếng đòi bình đẳng cho mình mà chỉ có thể cất lên những câu than thân, trách phận. Nàng Kiều trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du cũng cất lên những lời oán trách đầy đau xót:
"Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"
Xã hội xưa yêu cầu phụ nữ phải sống theo đạo Tam tòng (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) - Tứ đức (Công - dung - ngôn - hạnh) nhưng lại không cho họ quyền được định đoạt số phận của mình. Còn gì đắng cay hơn khi sống cuộc đời của thân tầm gửi và phải phụ thuộc vào người khác? Người phụ nữ không có tự do, không được tự do tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân. Cuộc sống của họ như "chim vào lồng", "cá cắn câu" không biết đến bao giờ mới có thể thoát ra và thay đổi được.
Mặc dù bị vùi dập, chà đạp phũ phàng nhưng người phụ nữ vẫn giữ được tấm lòng son sắt, chung thủy:
"Mà em vẫn giữ tấm lòng son"
Nếu bánh trôi nước có vị ngọt của nhân bánh là điểm nhấn thì người phụ nữ có "tấm lòng son" là vẻ đẹp trong tâm hồn của họ. "Tấm lòng son" là minh chứng cho tiết hạnh, nhân phẩm của người phụ nữ. Đó là sự hiếu nghĩa với cha mẹ, lòng thủy chung với người chồng, sự chăm sóc, tảo tần dành cho con cái. "Tấm lòng son" cũng là vẻ đẹp ẩn sâu bên trong con người người phụ nữ. Có lẽ trong xã hội xưa, người phụ nữ chỉ được nắm quyền chủ động duy nhất trong việc gìn giữ tấm lòng son sắt, gìn giữ những phẩm chất tốt đẹp của mình. Dù cho số phận có xô đẩy mình trôi dạt về đâu thì họ cũng luôn giữ lại nhân cách và phẩm giá cao thượng. Họ là những con người bản lĩnh khi đã trải qua biết bao cay đắng, khổ đau mà vẫn giữ được "tấm lòng son".
Hồ Xuân Hương không chỉ thể hiện nỗi niềm riêng của cá nhân mà bà còn thể hiện một cái nhìn lắng đọng, một nỗi trăn trở về "phận đàn bà" trong xã hội xưa. Hơn ai hết, bà hiểu rất rõ nỗi khổ ấy bởi chính bà đã chịu cảnh chồng chung, hai lần làm lẽ:
"Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung"
(Lấy chồng chung)
Cái nhìn của bà đã bao quát được toàn bộ số phận của những người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến. Bà dũng cảm lên tiếng đòi quyền bình đẳng, quyền hạnh phúc cho giới của mình. Người phụ nữ đã gánh chịu quá nhiều khổ cực, vất vả, họ cần phải được giải thoát. Bên cạnh đó, "bà chúa thơ Nôm" cũng thể hiện sự đồng cảm, thương xót của mình với số phận của những người phụ nữ. Những số phận mà đại thi hào Nguyễn Du phải thốt lên:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
"Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương đã góp một cái nhìn chân thực về số phận người phụ nữ trong xã hội xưa cũ. Họ có vẻ đẹp, có nhân phẩm nhưng họ chưa bao giờ được xã hội công nhận và trân trọng.