logo

Tác giả - tác phẩm: Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam (Tóm tắt, nội dung, nghệ thuật, HCST, sơ đồ tư duy)

Khái quát Tác giả - tác phẩm: Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam bao gồm Giới thiệu tác giả Bùi Hồng và hoàn cảnh sáng tác, thể loại, bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, đặc sắc nghệ thuật Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam - SGK Cánh Diều Văn 7

Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam


I. Giới thiệu tác giả Bùi Hồng

Nhà văn Bùi Hồng tên tên khai sinh là Bùi Văn Hồng, quê ở Phù Việt, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Ông có bút danh khác là Văn Hồng, Tân Đình, Thanh Hương.
Ông là Đảng viên Đảng CSVN; Hội viên Hội nhà văn Việt Nam năm 1984.

Tham gia công tác Đoàn từ tháng 8/1945; công tác tuyên huấn, tổ chức Đảng ở quê từ 1948. Bắt đầu viết và in các truyện ký, phê bình sách từ 1951. Sau khi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Văn, năm 1962 đến 1992 làm biên tập rồi Trưởng ban và Tổng biên tập NXB Kim Đồng.

 

Tác giả - tác phẩm: Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam (Tóm tắt, nội dung, nghệ thuật, HCST, sơ đồ tư duy)


Tác phẩm chính: Trên đất Cẩm Bình (truyện ký, 1968); Cá rô ron không vâng lời mẹ (truyện đồng thoại, 1969); Hoa trái đầu mùa (phê bình tiểu luận, 1987). Mười năm ghi nhận (phê bình tiểu luận,1997); Cô gái bướng bỉnh (truyện ký, 2001); Hương cây – mối tình đầu của tôi (truyện ngắn – 2002); Từ mục đồng đến Kim Đồng (tức Mười năm ghi nhận, có bổ sung, 2002); Mai đây đi hết con đường… (chân dung và hồi ức, 2007) 

- Giải thưởng văn học: Tặng thưởng của Ủy ban Thiếu niên nhi đồng và Hội Nhà văn Việt Nam cho tập Trên đất Cẩm Bình (truyện ký, 1968).


II. Khái quát tác phẩm Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam

Tác giả - tác phẩm: Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam (Tóm tắt, nội dung, nghệ thuật, HCST, sơ đồ tư duy)

1.Thể loại

Văn nghị luận là thể loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng nào đó đối với các sự việc, hiện tượng trong đời sống hay trong văn học bằng các luận điểm, luận cứ và lập luận.


2. Bố cục

Văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam được chia thành 3 phần:

- Phần 1 (từ đầu đến “phù hợp với đại chúng trẻ em”): Giới thiệu về truyện Đất rừng phương Nam

- Phần 2 (tiếp theo đến “dãy trường thành vô tận…”): Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong truyện Đất rừng phương Nam

- Phần 3 (còn lại): Nghệ thuật miêu tả con người trong truyện Đất rừng phương Nam


3. Giá trị nội dung

Văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam" đã giúp em hiểu văn học góp phần mở rộng kiến thức về con người và thế giới xung quanh. Thông qua việc phân tích và làm rõ nghệ thuật kể chuyện, xây dựng nhân vật của Đoàn Giỏi, tác giả Bùi Hồng đã cho người đọc thấy được vốn sống phong phú và hiểu biết sâu sắc của Đoàn Giỏi về thiên nhiên, các loài vật và con người ở vùng Cửu Long sông nước. Đọc tác phẩm của Đoàn Giỏi, người đọc đồng thời được mở mang hiểu biết về thiên nhiên con người nơi đây


4. Đặc sắc nghệ thuật 

- Cách triển khai ý kiến, lí lẽ rõ ràng, mạch lạc

- Lối viết hấp dẫn, thuyết phục


5. Tác phẩm Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam

[...] Nhân vật trong Đất rừng phương Nam có nhiều tầng lớp, nhiều ngành nghề như một xã hội thu nhỏ hoạt động suốt hai triền sông (Tiền Giang và Hậu Giang) vào rừng U Minh, xuống tận mũi Cà Mau. Truyện Đất rừng phương Nam có kết cấu chương hồi kiểu truyền thống: không gian, thời gian rạch ròi, nhân vật thiện ác, trắng đen tách bạch và bộc lộ qua hành động, hình dáng, ngôn ngữ. Một văn cách dễ đọc, dễ hiểu, hợp với đại chúng trẻ em. 

Đoàn Giỏi đã từng viết một loạt sách về các con vật trên rừng, dưới biển, trong đó mỗi con (hồ, cá sấu, voi,...), cho ông đều kể đến trên dưới 50 trang sách. Không phải chỉ có kiến thức về loài, họ, thói quen sinh thái... mà phần nhiều là những mẫu chuyện có thật, sinh động xen lẫn những huyền thoại có xuất xứ hẳn hoi. Trong Đất rừng phương Nam, ông chỉ sử dụng một phân rất nhỏ vốn sông phong phú đó mả đã làm người đọc đi từ ngạc nhiên nảy đến ngạc nhiên khác: ba ba to bằng cái nia, kì đà lớn hơn chiếc xuống tam bản, cá sấu phải 12 trai tráng lực lưỡng mới khiêng nỏi. Người đọc không chỉ ngạc nhiên mà còn thâm đẫm cảm xúc, bởi Đoản Giỏi là một nhà thơ, một "thi sĩ của đất rừng phương Nam” (ý của Tràn Đình Nam). Đó là cảm giác ngây ngất trước vẻ đẹp rừng U Minh dưới ánh Mặt Trời vàng óng: Những thân cây tràm vỏ trắng vươn thẳng lên trời, chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, đầu lá rĩ phất phơ như những đâu lá liễu bạt ngàn. Từ trong biển lá xanh rờn đã bắt đầu ngã sang màu tía, ngắt dậy một mùi hương lá tràm bị hun nóng ... tiếng chim không ngớt vang ra, vọng mãi lên trời cao xanh thăm không cùng... Và nỗi
rợn ngợp trước dòng sông Năm Căn: nước âm âm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng ... con sông rộng hơn Những dòng chữ in ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận.

Cùng với thiên nhiên được Đoàn Giỏi vẽ với những lộng lẫy, cuồn cuộn, tràn trẻ sức sống con người Nam Bộ với những nét sắc sảo lạ lùng. Ông không nhiều lời, đôi khi chỉ vài ba nét: những lời nói ngọt nhạt, cái túi tiền thâm đen, căng phông, bóng mỡ của dì Tư Béo; cái áo vắt vai và những câu đối thoại ngật ngưỡng, hài hước, dở tỉnh, dở say của lão Ba Ngủ. Tôi muốn nói kĩ hơn hai nhân vật được ông khắc họa kĩ lưỡng nhất: ông Hai bán rắn và chú Võ Tòng. Hai người đều không có đất, quanh năm ở đợ làm thuê cho địa chủ. Bị chúng cướp công, cướp người yêu, cướp vợ. Họ đánh trả và bị tù. Chỗ khác nhau là ông Hai bản rắn - tía nuôi An - trốn tù, đón vợ rồi bỏ vào rừng U Minh. Một con thuyền nhỏ, hai vợ chồng, thằng con trai và con chó Luốc đi lang thang kiếm sống bằng đủ thử nghề: câu rắn, lấy mật, săn cá sầu,…Gương mặt ông khoáng đạt, rất dễ mến. Làn da mặt như người trẻ, chỉ ở đôi khoé mắt và trên vâng trán cao là có xếp mấy đường nhăn... Đôi mắt to, sáng quắc, núp dưới cặp chân mày rậm đen... Mấy nét thôi, nhưng hiện ra cái vẻ phóng khoáng, tự tin của một đời sống tự do và từng trải. Còn chủ Võ Tòng gây án, chú tự đến nhà việc nộp mình. Mãn hạn tù trở vẻ, con chết, vợ trở thành vợ nhỏ chủ đất. Mọi người chờ đợi một cuộc trả thủ đầm máu, nhưng không, Võ Tòng ngửa mặt cười lớn rồi vào rừng làm nghề săn bầy thú. Đây là những chuyện người đời truyền tụng, thật ra, chủ tên là gì, quê ở đâu cũng không rõ. Võ Tòng là tên mọi người gọi chú từ một sự tích trong truyện Tàu. Tuy nhiên “danh bất hư truyền”, bởi nó còn đâu đó trên gương mặt: Hai hố mắt ông ta sâu hoắm, và từ trong đáy hố sâu thâm đó, một cặp tròng mắt trắng đã, long qua, long lại, sắc như dao. Mái tóc hung hưng nhự bờm ngựa phú đài xuống Sáy... Chỗ gò má bên trên năm cái sẹo dài sã xuống từ thái dương vắt đến cổ, như đầu móng cọp cào .

Chuyện bác Hai và chú kết bạn rồi cùng nhau đánh giặc phẳng phất màu huyền thoại. Võ Tòng tẩm hàng chục tên thuốc độc và chia bác Hai một nửa. Đã nhiều kẻ thủ bị giết vì tên của Võ Tòng. Lần đó, Võ Tòng ngồi trên một cảnh gừa gie ra sông đón ca nô địch, với hai lần bật cung liên tiếp, chú đã bắn gục hai tên địch. Tiếp đến, một ca nô nữa xuất hiện, khi chú sửa soạn nhô lên ngắm bắn thì bất ngờ lọt vào ông nhòm của con Việt Chú ý các lí lẽ của tác gian (vợ Tư Mắm). Võ Tòng hi sinh, bác Hai đổi hẳn tính tính nết, suốt ngày lầm lì không nói một tiếng. Bác Hai bắt rắn là chuyện thực, Võ Tòng là chuyện vừa thực vừa ảo. Chỗ này, tôi nghĩ Đoàn Giỏi lại làm một ngón trộn nữa: trộn cổ điển phương Tây và cổ điển phương Đông - loại tiểu thuyết Tàu vốn rất được phổ cập ở Nam Bộ. Hình thức mà cũng là nội dung. Bởi phương Nam mới khai phá, đất hoang, rừng rậm, chim trời cá nước mênh mông, làm sao người nông dân lại chịu cảnh như anh Pha, chị Dâu ... Họ có nhiều tự do hơn, trước kẻ thù (hai chân và bốn chân), họ chống trả quyết liệt. Với bạn bè giai cấp, họ gắn bó thuỷ chung. Họ hảo hiệp, phóng khoáng kiểu Lương Sơn Bạc. Có thể nói, đất rừng phương Nam đã nói được cái tinh tuý của hồn đất, hồn người một vùng châu thổ Cửu Long Giang. 


III. Câu hỏi vận dụng kiến thức tác phẩm Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam

Câu hỏi 1: Theo em, mục đích chính của văn bản nghị luận trên là gì? Nội dung của các phần trong văn bản đã làm rõ được mục đích ấy như thế nào?

Lời giải:

Mục đích chính của văn bản là làm rõ ý kiến “Đất rừng phương Nam đã nói được cái tinh túy của hồn đất, hồn người một vùng châu thổ Cửu Long Giang”.

Nội dung các phần đã liên kết, làm rõ cho ý kiến trên, giúp tác giả thực hiện được mục đích nghị luận

Câu hỏi 2: Trong phần (3), tác giả đã so sánh hai nhân vật: ông Hai bán rắn và chú Võ Tòng. Dựa vào bài viết, em hãy chỉ ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai nhân vật này.

Lời giải:

  Ông Hai Chú Võ Tòng
Giống

- Đều không có đất, quanh năm ở đợ làm thuê cho địa chủ.

- Đều bị cướp công, cướp người yêu, cướp vợ.

- Đều đánh trả và bị tù.

Khác

- Trốn tù, đón vợ rồi bỏ vào rừng U Minh.

- Kiếm sống bằng đủ thứ nghề: câu rắn, lấy mật, săn cá sấu,...

- Gương mặt khoáng đạt, rất dễ mến. Làn da mặt như người trẻ, chỉ ở đôi khóe mắt và trên vầng trán cao là có xếp mấy đường nhăn

- Gây án tự đến nhà việc nộp mình. Mãn hạn tù trở về, con chết, vợ trở thành vợ nhỏ của địa chủ.

- Làm nghề săn bẫy thú.

- Hai hố mắt sâu hoắm, từ trong đáy hố sâu thâm đó, một cặp tròng mắt trắng dã, long qua, long lại, sắc như dao. Mái tóc hung hung như bờm ngựa phủ dài xuống gáy. Chỗ gò má bên phải có năm cái sẹo dài sả xuống từ thái dương vắt đến cổ, như đầu móng cọp cào...

Câu hỏi 3: Văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam" đã giúp em hiểu văn học góp phần mở rộng kiến thức về con người và thế giới xung quanh như thế nào?

Lời giải:

Văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam" đã giúp em hiểu văn học góp phần mở rộng kiến thức về con người và thế giới xung quanh. Thông qua việc phân tích và làm rõ nghệ thuật kể chuyện, xây dựng nhân vật của Đoàn Giỏi, tác giả Bùi Hồng đã cho người đọc thấy được vốn sống phong phú và hiểu biết sâu sắc của Đoàn Giỏi về thiên nhiên, các loài vật và con người ở vùng Cửu Long sông nước. Đọc tác phẩm của Đoàn Giỏi, người đọc đồng thời được mở mang hiểu biết về thiên nhiên con người nơi đây

Câu hỏi 4: Những nhân vật nào được nhắc tới trong phần 3 này

Lời giải:

Trong phần 3, tác giả nhắc tới các nhân vật: dì Tư Béo, lão Ba Ngù, ông Hai bán rắn, chú Võ Tòng

Câu hỏi 5: Văn bản viết về vấn đề gì? Nhan đề văn bản thể hiện vấn đề ấy như thế nào? Mục đích của văn bản là gì?

Lời giải:

Văn bản viết về thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam. Nhan đề văn bản đã nêu rõ vấn đề được thể hiện trong văn bản.

Mục đích của văn bản là cho thấy đặc điểm của thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam.

Câu hỏi 6: Mục đích của văn bản là gì?

Lời giải:

Mục đích của văn bản là nghị luận về thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam

>>> Xem trọn bộ: Tác giả - Tác phẩm Văn 7 Cánh diều

-----------------------------

Trên đây Top lời giải đã cùng các bạn Khái quát về Tác giả - tác phẩm: Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam trong bộ SGK Cánh diều theo chương trình sách mới. Chúng tôi hi vọng các bạn đã có kiến thức hữu ích khi đọc bài viết này. Top lời giải đã có đầy đủ các bài giới thiệu về tác giả tác phẩm các bộ sách mới Cánh Diều, Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức. Mời các bạn hãy click ngay vào trang chủ Top lời giải để tham khảo và chuẩn bị bài cho năm học mới nhé. Chúc các bạn học tốt! 

icon-date
Xuất bản : 10/07/2022 - Cập nhật : 26/07/2022