logo

Soạn sinh 8 Bài 19 ngắn nhất: Thực hành. Sơ cứu cầm máu

Soạn sinh 8 Bài 19 ngắn nhất: Thực hành. Sơ cứu cầm máu (ảnh 3)

Trong bài học này Top lời giải sẽ cùng các bạn tổng hợp kiến thức cơ bản và trả lời toàn bộ các câu hỏi Bài 19. Thực hành. Sơ cứu cầm máu trong sách giáo khoa Sinh học 8. Đồng thời chúng ta sẽ cùng nhau tham khảo thêm các câu hỏi củng cố kiến thức và thực hành bài tập trắc nghiệm trong các đề kiểm tra.

Vậy bây giờ chúng ta cùng nhau bắt đầu nhé:

Mục tiêu bài học

- Học sinh phân biệt được chảy máu động mạch, tĩnh mạch, mao mạch

- Biết cách sơ cứu và băng cầm máu cho chảy máu mao mạch, tĩnh mạch, động mạch

Bài 19: Thực hành. Sơ cứu cầm máu

BÀI THU HOẠCH

1. Kiến thức:

* Chảy máu tĩnh mạch và động mạch có gì khác nhau về biểu hiện và cách xử lí?

Trả lời:

+ Chảy máu ở tĩnh mạch: Chảy chậm, ít. Có thể sơ cứu tại chỗ bằng băng dán hay gạc (nếu vết thương sâu thì nên đến bệnh viện).

+ Chảy máu ở động mạch: Chảy mạnh do vẫn tốc máu trong mạch lớn, chảy thành tia gây nguy hiểm, cần sơ cứu tạm thời và đưa ngay đến bệnh viện.

* Những yêu cầu cơ bản của biện pháp buộc dây garô là gì? Vì sao chỉ những vết thương chảy máu động mạch ở tay hoặc chân mới dùng biện pháp buộc dây garô?

Trả lời:

+ Những yêu cầu cơ bản của biện pháp buộc dây garô:

Trước khi đặt garo nên dùng vải quấn quanh da vùng định thắt để tránh xoắn và kẹt da phía dưới dây thắt.

Khi đặt vòng garo đầu tiên phải chặt nhất sau đó lực thắt giảm dần. Các vòng garo nằm cạnh nhau sao cho ko bị xoắn kẹp, đầu dây garo phải được cố định lại.

Trường hợp đặt garo đúng máu nhanh chóng ngừng chảy, chỉ trắng nhợt, phía dưới chỗ đặt garo mạch ko còn đập.

Nếu thắt garô quá chặt có thể gây dập nát tổ chức phần mềm, và cũng là nguyên nhân gây liệt chi.

Nếu đặt garo ko đủ chặt máu tiếp tục chảy, đồng thời ứ tắc tĩnh mạch (chi có thể tím thẫm).

Ko được phép để garo lâu quá 1,5 - 2h, nếu lâu quá phần dưới garo sẽ bị hoại tử. Vì vậy khi đặt garo nhất thiết phải ghi giờ vào 1 tờ giấy và đặt tờ giấy vào chỗ đặt garo, cứ 1h nới lỏng garo 1 lần, nới từ từ mỗi lần khoảng 30 giây.

Chuyển bệnh nhân tới bệnh viện nhanh nhất có thể.

+ Những vết thương chảy máu động mạch ở tay hoặc ở chân mới dùng biện pháp buộc day garô vì tay và chân là những mô đặc nên biện pháp buộc dây garô mới có hiệu quả cầm máu.

* Những vết thương chảy máu động mạch không phải ở tay (chân) phải xử lí thế nào?

Trả lời:

+ Ở những vị trí khác, biện pháp garô vừa không có hiệu quả cầm máu (Ví dụ: Vết thương ở bẹn, ở bụng) do buộc garô sẽ không chắc chắn, vừa có thể gây ra nguy hiểm tính mạng (ví dụ: Vết thương ở đầu, mặt, cổ). Do não sẽ bị thiếu O2 mà não chỉ cần thiếu O2 khoảng ¾ phút đã có thể bị tổn thương tới mức không thể hồi phục.

+ Nếu người sơ cứu có kiến thức cấp cứu vết thương thì một mặt cho băng chặt vết thương, mặt khác lấy ngón tay ấn chặn vào phía trên đường đi của động mạch (phía trên vết thương đó).

+ Nếu người sơ cứu không biết nghiệp vụ cấp cứu vết thương thì cần băng chặt vết thương để cầm máu tạm thời sau đó nhanh chóng đưa nạn nhân đến bệnh viện gần nhất.

2. Kĩ năng:

Bảng 19. Các kỹ năng sơ cứu vết thương chảy máu

Các kĩ năng được học Các thao tác Ghi chú
1. Sơ cứu vết thương chảy máu mao mạch và tĩnh mạch

- Dùng ngón tay cái bịt chặt miệng vết thương tới khi máu ngừng chảy.

- Sát trùng vết thương bằng cồn.

- Băng kín vết thương (có thể dùng băng dán với vết thương nhỏ và gạc với vết thương lớn).

Sau khi băng nếu thấy vẫn chảy máu, cần đưa đến bệnh viện cấp cứu.
2. Sơ cứu vết thương chảy máu động mạch

- Dò tìm vị trí động mạch phía trên vết thương (về phía gần tim).

- Dùng ngón tay ấn mạnh vào để cầm máu tạm thời. Với vết thương ở tay chân có thể dùng biện pháp buộc dây garô ở phía trên vết thương (cứ 15 phút lại nới dây garô).

- Sát trùng vết thương. Băng kín vết thương.

- Đưa ngay đến bệnh viện cấp cứu.

Trên khăn buộc garô cần ghi chú thời gian bắt đầu buộc garô và những khoảng cách thời gian nới garô trên đường đến bệnh viện.
icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 28/07/2023