logo

Soạn SBT Ngữ Văn 7 Bài 3: Cuội nguồn yêu thương - KNTT

Hướng dẫn Soạn SBT Ngữ Văn 7 Bài 3: Cuội nguồn yêu thương - KNTT hay nhất. Trả lời toàn bộ các câu hỏi và bài tập trong sách bài tập Ngữ Văn 7 Kết nối tri thức. Hi vọng, với cách hướng dẫn cụ thể và lời giải chi tiết các bạn sẽ nắm vững bài học tốt hơn.

Bài 3: Khúc nhạc tâm hồn - Kết nối tri thức

Bài tập 1 trang 21 SBT Ngữ Văn 7 Tập 1: Đọc lại văn bản Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ trong SGK (tr. 59 - 63) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1: Em hãy tóm tắt nội dung văn bản.

Trả lời:

Truyện kể về một cậu bé được bố dạy cho những bài học quý giá. Đầu tiên, cậu phải nhắm mắt lại, rồi chạm vào những bông hoa và đoán. Trò chơi này không chỉ diễn ra trong vườn mà còn trong nhà. Nhân vật tôi còn đoán được các đồ vật trong gia đình và đoán được bố đang đứng cách mình bao xa. Ngay cả việc chỉ cần ngửi đã biết được đó là loại hoa gì và không bao giờ nhầm lẫn. Điều này làm nhân vật tôi rất vui và mãn nguyễn vì nhớ những điều đó mình có thể cảm nhận được cả vườn hoa theo cách rất riêng. Cậu nhận ra những bông hoa là người đưa đường, dẫn lối cho cậu trong khu vườn.

Câu 2: Nhân vật "tôi" đã đoán ra các loài hoa trong vườn và nhận ra bước chân của bố bằng cách nào?

Trả lời:

+ Nhân vật tôi nhắm mắt lại, chạm tay vào những bông hoa trong vườn, sau đó là ngửi mùi hương riêng biệt của các loài hoa để đoán ra loài hoa trong vườn.

+ Nhân vật tôi nhận ra bước chân của bố bằng cách nghe âm thanh tiếng bước chân bố từ đằng xa vang lại

Câu 3: Tìm một số chi tiết miêu tả suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật “tôi” về bố. Từ các chi tiết đó, em hãy nêu nhận xét về tính cách của nhân vật người bố.

Trả lời:

Chi tiết miêu tả suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật tôi về bố: 

- Bố tôi bơi giỏi lắm

- Tôi hay gọi bố chỉ để nghe âm thanh

=> Nhân vật bố là một người cha hết mực yêu thương con cái, luôn chăm sóc, chỉ dạy đứa con của mình. Không chỉ thế người bố còn là một người cha tài giỏi.

Câu 4: Em hãy kể lại sự việc Tí được cứu sống bằng lời của nhân vật người bố.

Trả lời:

Sau nhà tôi có một con sông nhỏ. Những ngày nghỉ tôi hay dẫn con trai ra đó tắm. Hôm đó, khi cả nhà đang ăn cơm thì bỗng nghe một tiếng hét lớn. Sau đó hoàn toàn im lặng. Mọi người nhìn quanh không biết tiếng hét phát ra từ hướng nào thì con trai tôi bỗng quả quyết tiếng hét cách nhà tôi khoảng ba chục mét hướng ngoài bờ sông. Chợt nhớ ra thằng Tí, con bà Sáu hay chơi ở ngoài đó, tôi vội quăng chén cơm đang ăn dở rồi băng vườn chạy ra. Vợ và con trai cũng chạy theo. Quả đúng như vậy, dưới cái hụp xoáy, thằng Tí chới với chỉ còn lòi ngón chân. Tôi vội vàng lao mình xuống dòng nước cứu cháu bé. Bụng nó đầy nước, tôi phải nắm ngược hai chân dốc xuống như làm xiếc. Giây lát sau, thằng bé tỉnh lại, tôi ẵm nó về nhà. Cả xóm hay tin, bu lại hỏi thăm sao con trai tôi lại có thể lắng nghe âm thanh tài tình đến như vậy. Bà Sáu mẹ thằng Tí thì cảm ơn bố con tôi rối rít. Lúc này tôi mới hoàn hồn, thở phào nhẹ nhõm nhìn con trai đầy tự hào và hạnh phúc. Tôi nháy mắt và hai bố con cùng cười ồ vì đó là một bí mật không thể tiết lộ!

Bài tập 2 trang 21 SBT Ngữ Văn 7 Tập 1: Đọc lại văn bản Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (từ Bạn hãy tưởng tượng đến lối đi an toàn và thơm ngát) trong SGK (tr. 62 - 63) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1: Theo nhân vật “tôi” điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta “vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ”?

Trả lời:

Theo nhân vật tôi điều chúng ta "vừa nhắm mắt vừa mở của sổ"

+ Bấy giờ là mùa gì và bông hoa nào đang nở, tên là gì.

+ Biết được từng tiếng bước chân trong vườn, biết chính xác đó là bố hay mẹ, người đó cách xa mình bao nhiêu mét.

Câu 2: Bí mật mà nhân vật “tôi” muốn chia sẻ là gì?

Trả lời:

- Bí mật mà nhân vật “tôi” muốn chia sẻ đó là “con mắt thần” nằm ở mũi.

→ “bí mật” ấy mang lại rất nhiều điều cho cuộc sống của nhân vật: cách cảm nhận tinh tế, có thể cảm nhận mọi thứ khi nhắm mắt và không bao giờ lạc lối trong khu vườn.

Câu 3: Khi nào chúng ta có thể "nhìn" thấy bông hồng ngay trong đêm tối và không bao giờ lạc lối trong những khu vườn?

Trả lời:

Để có thể “nhìn” thấy bông hồng ngay trong đêm tối và không bao giờ lạc lối trong những khu vườn thì chúng ta cần phải cảm nhận những thứ xung quanh bằng mọi giác quan, không chỉ riêng bằng đôi mắt. Khi ta mở rộng tâm hồn và đón nhận cuộc sống bằng mọi giác quan và tinh thần tích cực thì ta sẽ thấy được ánh sáng soi đường cho chính mình.

Câu 4: Những cảm xúc, suy nghĩ về khu vườn và các loài hoa thể hiện nét tính cách nào ở nhân vật “tôi”?

Trả lời:

Những cảm xúc, suy nghĩ về khu vườn và các loài hoa thể hiện nét tính cách yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và đang tận hưởng cuộc sống một cách thoải mái, thư giãn.

Câu 5: So sánh cặp câu dưới đây và nhận xét về tác dụng của việc mở rộng vị ngữ của câu bằng cụm từ.

a. Đó chính là một điều bí mật.

b. Đó chính là một điều bí mật mà tôi muốn chia sẻ với bạn.

Trả lời:

Vị ngữ một điều bí mật mà tôi muốn chia sẻ với bạn ở câu b nêu thông tin cụ thể hơn so với một điêu bí mật ở câu a. Đó là một điều bí mật mà người nói muốn người nghe được biết, chứ không phải là một điều bí mật chung chung.

Bài tập 3 trang 21, 22 SBT Ngữ Văn 7 Tập 1Đọc văn bản Người thầy đầu tiên trong SGK (tr. 65 - 70) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1: Câu chuyện được kể bằng lời của những nhân vật nào? Hãy giới thiệu ngắn gọn về họ.

Trả lời:

Câu chuyện được kể bằng lời của nhân vật người hoạ sĩ và nhân vật An-tư-nai. Khi giới thiệu về từng nhân vật, em cần chú ý các thông tin cơ bản như: quê hương, độ tuổi, nghề nghiệp, mối quan hệ của họ, đặc biệt là mối quan hệ với nhân vật thầy Ðuy-sen.

Câu 2: Đọc văn bản, em hình dung như thế nào về cô bé An-tư-nai (hoàn cảnh sống, đặc điểm tính cách,...) ?

Trả lời:

Nhân vật chính là An-tư-nai, một cô bé mồ côi, phải sống với gia đình chú thím, bị đối xử tàn nhẫn, nhưng luôn tin vào cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn.

Câu 3: Nêu cảm nhận của em về nhân vật thầy Đuy-sen. Điều gì ở thầy Đuy-sen gây ấn tượng nhất với em?

Trả lời:

+ Thầy Đuy – sen là một người thầy nhân hậu, tốt bụng, sẵn sàng giúp đỡ những người xung quanh, đặc biệt là những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, thích đi học nhưng không có điều kiện để đi học.

+ Điều đặc biệt ở nhân vật thầy Đuy – sen khiến em ấn tượng nhất là thầy sẵn sàng đi ngược lại suy nghĩ, cách nhìn của những người xung quanh để bảo vệ cho công lý, cho giáo dục và luôn quan tâm, giúp đỡ học trò một cách tận tâm và nhiệt tình.

Câu 4: Hãy kể lại một sự kiện trong câu chuyện bằng lời của nhân vật thầy Ðuy-sen.

Trả lời:

Hôm nay là ngày đầu tiên tôi chuyển công tác vì miền núi giảng dạy. Mọi thứ ở nơi này có chút xa lạ và tôi cảm thấy cuộc sống còn thiếu thốn rất nhiều thứ. Tôi liền nghĩ mình phải làm một điều gì đấy, có thể nhỏ thôi nhưng sẽ một phần nào đó thay đổi được cuộc sống của nơi đây.

Thế là tôi bắt tay sửa sang lại trường học, với mong muốn giúp cho trẻ em được tới trường học đàng hoàng. Bắt đầu từ việc đắp lò sưởi ở góc nhà, rồi bắc cả ống khói trên mái và trữ sẵn cúi để sưởi ấm trong mùa đông. Còn dưới nền nhà thì sẽ trải rơm thật nhiều. Tất cả những điều tôi làm là để tạo điều kiện tốt nhất, giúp các em học sinh có thể được học tập trong môi trường ấm áp và không phải chịu đựng mùa đông lạnh giá.

Sau khi tạm xong xuôi, tôi vô tình nhìn thấy những em gái đi ngang qua nghỉ ngơi. Tôi từ trong cửa bước ra, lúc ấy người đang bê bết đất, tôi ngẩn người nhưng rồi cũng mau chóng mỉm cười niềm nở, lấy tay quệt mồ hôi trên mặt mà hỏi: “Đi đâu về thế các em gái?”. Thấy những đứa trẻ lúng túng, im lặng ngồi cạnh những bao ki-giắc thẹn thò nhìn nhau bẽn lẽn. Để xua tan bầu không khí ngượng ngùng, tôi nháy mắt động viên các em. Tôi bảo các em rằng “Các em cả sẽ học tập ở đây là gì?”, rôi tôi khoe với các em rằng ngôi trường của các em đã xong đến nơi rồi và có thể là bắt đầu học được rồi. Cuối cùng tôi hỏi các em “các em thích học không”, “các em sẽ đi học chứ?”. Sự háo hức, mong chờ được đón tiếp các em tới trường bùng dậy trong lòng tôi một lúc càng lớn hơn.

Nhìn nét mặt rụt rè của các em, tôi hiểu được rằng đứa trẻ nào cũng khao khát được tới trường để học như thế nào. Tuy nhiên, do hoàn cảnh thiếu thốn, sự không được cho phép và ủng hộ của gia đình khiến cho các em không có cơ hội được đi học. Bỗng có một em mạnh dạn trả lời rằng: “Nếu thím em cho đi thì em sẽ đi”. Tôi tò mò hỏi tại sao thím em ấy lại không cho đi và hỏi tên em ấy. Thì ra tên em ấy là An-tư-nai. Đó là một cái tên hay, tôi liền khen ngợi em và còn nói thêm “mà em thì chắc là ngoan lắm phải không?”. Tôi không nghĩ rằng từ lời khen và nụ cười hiền từ của tôi khi ấy đã khiến cho cô bé thấy ấm lòng hẳn lại.

Rồi tôi mới biết rằng em mồ côi cha mẹ và sống với chú thím, em ấy thật đáng thương. Tôi mỉm cười nhờ An-tư-nai sẽ dẫn các bạn đi học. Tôi chỉnh lại cách gọi của các em là gọi bằng thầy chứ không phải là chú. Rồi tôi mời các em đi xem trường, nhưng các em ấy lại phải về nhà nên tôi đành hẹn dịp khác. Sau khi các em đứng dậy cõng những bao ki-giắc trên lưng rảo bước về làng, thì tôi cũng cầm lấy chiếc liềm và sợi dây đi lấy rạ khô lần nữa tranh thủ trời chưa tối.

Tôi nghĩ rằng trẻ em đáng lẽ ra phải được tạo điều kiện tốt nhất để tới trường đi học. Nhưng có lẽ mọi người vẫn chưa hiểu được sự khao khát của trẻ thơ và chưa coi trọng việc giáo dục các em. Điều đó khiến tôi cảm thấy rất buồn, và muốn sẽ làm điều gì đó để thay đổi hoàn cảnh khó khăn này.

Bài tập 4 trang 22, 23 SBT Ngữ Văn 7 Tập 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Tôi chợt nảy ra một ý nghĩ bất ngờ.

 - Này các cậu ơi – tôi gọi các bạn – ta đổ ki-giắc vào trường đi, đến mùa  đông sẽ có nhiều cái đốt sưởi hơn.

- Thế về nhà tay không à? Chà, khôn đấy nhỉ!

– Nhưng ta sẽ quay lại nhặt thêm nữa.

- Thôi muộn mất, về nhà lại phải mắng đấy. Và bọn con gái không chờ tôi, cứ rảo cẳng về nhà.

Cho đến nay tôi vẫn không hiểu hôm ấy cái gì xui khiến tôi dám làm một việc như thế. Không biết vì tôi giận các bạn đã không nghe tôi nên cứ muốn làm theo ý mình, hay từ thuở bé mọi ước nguyện, mọi ý muốn của tôi đều bị chôn vùi dưới những lời mắng chửi, những cái bạt tai của những con người phũ phàng; chỉ biết là tôi vẫn thấy muốn làm việc gì để cảm ơn con người thật ra không quen biết ấy, để đền đáp lại nụ cười đã sưởi ấm lòng tôi, đền đáp lòng tin cậy của người ấy đối với tôi, đền đáp mấy câu nói nhân từ ấm áp. [...] Khi các bạn bỏ tôi lại, tôi chạy trở về trường Đuy-sen, trút bao ki-giắc xuống dưới cửa và cắm đầu chạy men theo các khe rãnh, các hẻm đá ở chân núi nhặt ki-giắc.

Tôi cứ chạy mãi, không còn biết mình đi đâu nữa, như thể vì quá dư sức mà tim tôi sung sướng đập rộn rã trong lồng ngực, tựa hồ như tôi đã làm nên công trạng gì vô cùng to lớn. Và cả mặt trời cũng như biết rõ vì đâu tôi sung sướng đến thế. Phải, tôi tin rằng mặt trời cũng biết vì đâu tôi lại chạy tung tăng nhẹ nhàng như thế. Bởi vì tôi đã làm được một việc nhỏ hữu ích.

Mặt trời đã xế bóng ngang các sườn đồi, nhưng tôi cảm thấy dường như còn chần chừ không muốn lặn, còn muốn nhìn tôi. Ánh mặt trời tô điểm con đường tôi đi, mặt đất rắn mùa thu trải ra dưới chân tôi nhuộm thành màu đỏ, màu hồng, màu tím. Từng cụm bông lau khô vun vút bay hai bên như những tia lửa lập loè. Mặt trời rọi lửa lên những chiếc cúc mạ bạc trên tấm áo đầy mụn và tôi mặc.Và tôi cứ chạy đi, trong lòng hoan hỉ nói với đất trời, với gió mây: “Hãy nhìn tôi đây! Hãy nhìn xem tôi đang kiêu hãnh chừng nào! Tôi sẽ học hành, tôi sẽ đến trường và sẽ dẫn các bạn khác đến!...”

(Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp, Gia-mi-li-a (Jaymilya) – Truyện núi đồi và thảo nguyên, Phạm Mạnh Hùng – Nguyễn Ngọc Bằng – Cao Xuân Hạo – Bồ Xuân Tiến dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2019, tr. 369 – 371)

Câu 1: Vì sao nhân vật An-tư-nai quyết định trút lại bao ki-giắc ở trường Ðuy-sen?

Trả lời:

- Lí do nhân vật An-tư-nai quyết định trút lại bao ki-giắc ở trường Ðuy-sen: Không biết vì tôi giận các bạn đã không nghe tôi nên cứ muốn làm theo ý mình, hay từ thuở bé mọi ước nguyện, mọi ý muốn của tôi đều bị chôn vùi dưới những lời mắng chửi, những cái bạt tai của những con người phũ phàng; chỉ biết là tôi vẫn thấy muốn làm việc gì để cảm ơn con người thật ra không quen biết ấy, để đền đáp lại nụ cười đã sưởi ấm lòng tôi, đền đáp lòng tin cậy của người ấy đối với tôi, đền đáp mấy câu nói nhân từ ấm áp.

Câu 2: Nêu những cảm xúc, suy nghĩ của An-tư-nai sau khi trút lại bao ki-giắc ở trường. Theo em, điều gì khiến An-tư-nai có tâm trạng như vậy?

Trả lời:

Khi An – tư – nai quyết định trút lại bao ki – giắc ở trường, cô bé cảm thấy vui sướng, hân hoan vì lần đầu tiên được tự mình làm một việc hữu ích. Trong lòng cô không hề lo lắng, sợ hãi dù không còn ki – giắc để mang về nhà. Trái lại, cô còn thấy tự hào, kiêu hãnh về bản thân, thấy mình tràn đầy hy vọng khi nghĩ tới việc được đi học ở trường của thầy Ðuy – sen. 

Câu 3: Liên hệ với nội dung phần (3) của văn bản Người thầy đầu tiên trong SGK và chỉ ra những chi tiết cho thấy thầy Ðuy-sen biết người trút lại bao ki-giắc ở trường chính là An-tư-nai. Điều đó có ý nghĩa như thế nào với An-tư-nai?

Trả lời:

Những chi tiết cho thấy thầy Đuy-sen biết người trút lại bao ki-giắc ở trường chính là An-tư-nai là: 

- Thầy Đuy-sen cố gắng đi kiếm đủ gỗ để bắc một cây cầu qua suối

- An-tư-nai em ngồi đây cho âm không cần xuống nữa, một mình thầy xuống là đủ.

- Thầy hỏi An-tư-nai có phải người bỏ lại ki-giắc ở lại trường không.

=> Ý nghĩa: Đó là một niềm vui lớn của An-tư-nai

Câu 4: Em hãy dựa vào các chi tiết miêu tả hành động, cảm xúc, suy nghĩ của An-tư-nai trong đoạn trích trên để khái quát đặc điểm tính cách của nhân vật.

Trả lời:

- Đặc điểm tính cách của nhân vật An-tư-nai, em cần nêu được các ý cơ bản sau: nhạy cảm, tinh tế; biết quan tâm, giúp đỡ mọi người; biết cảm nhận và trân trọng tình yêu thương của thầy Đuy-sen; hiếu học;...

Câu 5: Tìm các phó từ bổ nghĩa cho danh từ trong đoạn văn sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

Không biết vì tôi giận các bạn đã không nghe tôi nên cứ muốn làm theo ý mình, hay từ thuở bé mọi ước nguyện, mọi ý muốn của tôi đều bị chôn vùi dưới những lời mắng chửi, những cái bạt tai của những con người phũ phàng; chỉ biết là tôi vẫn thấy muốn làm việc gì để cảm ơn con người thật ra không quen biết ấy, để đền đáp lại nụ cười đã sưởi ấm lòng tôi, đền đáp lòng tin cậy của người ấy đối với tôi, đền đáp mấy câu nói nhân từ ấm áp.

Trả lời:

Các phó từ (được gạch chân) trong đoạn văn là: các bạn, mọi ước nguyện, mọi ý muốn, những lời mắng chửi, những cái bạt tai những con người phũ phàng.

- Phó từ các chỉ số lượng nhiều, gồm tất cả sự vật được nói đến (bạn)

- Phó từ những chỉ số lượng nhiều của sự vật được biểu thị ở danh từ. 

- Phó từ mọi chỉ số lượng không xác định với ý nhấn mạnh tất cả các sự vật được nói đến

Câu 6: Tìm các phó từ bổ nghĩa cho động từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Cho đến nay tôi vẫn không hiểu hôm ấy cái gì xui khiến tôi dám làm một việc như thế.

b. Bởi vì tôi đã làm được một việc nhỏ hữu ích.

c. Hãy nhìn xem tôi đang kiêu hãnh chừng nào!

Trả lời:

a. Phó từ: Vẫn => chỉ sự tiếp diễn

b. Phó từ: Đã => chỉ thời gian

c. Phó từ: Hãy => chỉ sự cầu khiến

Bài tập 5 trang 23, 24 SBT Ngữ Văn 7 Tập 1: Đọc lại văn bản Trong lòng mẹ trong SGK (tr. 84 - 87) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1: Xác định đề tài, người kể chuyện và tóm tắt ngắn gọn nội dung của đoạn trích.

Trả lời:

- Đề tài: tình mẫu tử.

- Ngôi kể: thứ nhất nhân vật xưng “tôi”.

- Tóm tắt ngắn gọn nội dung đoạn trích: Văn bản Trong lòng mẹ đã miêu tả một cách sinh động “những rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ dại” đối với người mẹ, bộc lộ sâu sắc lòng yêu thương mẹ của bé Hồng.

Câu 2: Nhân vật bé Hồng phải sống trong hoàn cảnh như thế nào?

Trả lời:

Hồng phải sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tình thương của những người thân trong gia đình, phải sống trong sự ghẻ lạnh của họ hàng, đặc biệt là người cô độc ác luôn cố ý reo rắc vào đầu em những suy nghĩ xấu xa để em ruồng rẫy, khinh miệt mẹ của mình.

Câu 3: Những lời gièm pha của người cô có khiến bé Hồng oán giận mẹ của mình không? Chi tiết nào giúp em nhận biết điều đó?

Trả lời:

Không oán trách mẹ mình ngược lại còn rất yêu thương mẹ của mình.Toan trả lời nhưng lại cúi đầu không đáp mà chỉ cười đáp lại - nhận ra những ý nghĩ cay độc và nét mặt rất kịch của bà cô

→ Bé Hồng rất nhạy cảm, nhận ra sự giả dối trong lời nói của bà cô

- Lòng càng thắt lại, khoé mắt cay cay 

- Nước mắt ròng ròng rớt xuống, chan hoà đầm đìa ở cằm, ở cổ. 

- Cười dài trong tiếng khóc, cổ họng nghẹn ứ, khóc không ra tiếng. 

- Căm ghét những cổ tục phong kiến đã đày đọa mẹ.

- BPNT: so sánh, lời văn dồn dập với các hình ảnh, các động từ mạnh: cắn, nhai, nghiến

→ Khắc hoạ rõ nét nỗi đau đớn, phẫn uất đến cực điểm của bé Hồng đối với bà cô, với cổ tục lạc hậu 

=> Thể hiện miền tin mãnh liệt và tình yêu thương mẹ vô cùng sâu sắc của bé Hồng

Câu 4: Chỉ ra diễn biến tâm trạng của nhân vật bé Hồng trong đoạn văn từ Nhưng đến ngày giỗ thầy tôi, tôi không viết thư gọi mẹ tôi cũng về đến hết.

Trả lời:

- Niềm vui sướng khi nhìn thấy một người giống mẹ ngồi trên xe kéo.

- Nỗi lo âu, sợ hãi khi chạy theo xe và hình dung mình nhầm lẫn, người ngồi trên xe không phải là mẹ.

- Cảm giác sung sướng, hạnh phúc khi được ở trong vòng tay yêu thương của mẹ.

Câu 5: Nêu cảm nhận của em về nhân vật bé Hồng.

Trả lời:

Hồng là một em bé tội nghiệp và đáng thương nhưng có tình yêu thương mẹ sâu sắc. Hồng nhận thức rất rõ những nỗi khổ mà mẹ đang phải gánh chịu, em thấy thương yêu mẹ và căm tức những hủ tục tàn độc và xấu xa đã đầy đọa mẹ của mình.

Bài tập 6 trang 24, 25 SBT Ngữ Văn 7 Tập 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Tôi có một cái răng khểnh. Khi đến trường, tụi bạn bảo đó là cái răng bừa cào. Mỗi lần tôi cười chúng cứ chỉ vào đó:

Ha ha, bừa cào kìa! Mày cho tao mượn về chải chỉ đi!

Từ đó, tôi không dám cười nữa. Tôi rất đau khổ. Tôi ghét những đứa có hàm răng đều. Chúng còn chỉ vào mặt tôi nói: “Đó là vì mày không chịu đánh răng, Những người đánh răng, răng mòn đều

Một hôm, bố tôi hỏi:

 - Sao dạo này bố không thấy con cười?

Tôi nói:

- Tại sao con phải cười hả bố?

– Đơn giản thôi. Khi cười, khuôn mặt con sẽ rạng rỡ. Khuôn mặt đẹp nhất - là nụ cười.

– Nhưng khi con cười sẽ rất xấu xí.

– Tại sao vậy? Bố ngạc nhiên. Ai nói với con?

- Không ai cả, nhưng con biết nó rất xấu, xấu lắm bố ơi!

– Bố thấy nó đẹp. Bố nói nhỏ con nghe nhé! Nụ cười của con đẹp nhất! - Nhưng làm sao đẹp được khi nó có cái răng khểnh?

- Ái chà! Bố bật cười. Thì ra là vậy. Bố thấy đẹp lắm! Nó làm nụ cười của con khác với những đứa bạn. Đáng lí con phải tự hào vì nó. Mỗi đứa trẻ có một điều kì lạ riêng. Có người có một đôi mắt rất kì lạ. Có người có một cái mũi kì lạ. Có người lại là một ngón tay. Con hãy quan sát đi rồi con sẽ thấy. Con sẽ biết rất nhiều điều bí mật về những người xung quanh mình.

Tôi biết một điều bí mật về cô giáo: cô có cái mũi hồng hơn những người khác. Và tôi đã nói điều đó cho cô hay. Cô ngạc nhiên lắm.

- Thật không? Cô trợn mắt.- Em nói thật! Mũi cô rất hồng. Em còn phát hiện một điều nữa, khi trợn mắt, mắt cô thật to. Những người có con mắt nhỏ không làm được như vậy đâu. Bố em nói đó là một điều bí mật. Cô đừng nói cho ai biết nhé. Khi cô nói điều bí mật ra, cô sẽ quên cái mũi cô ngay.

- Vậy à! Em có nhiều điều bí mật không?

- Dạ có. Nhưng em sẽ không kể cho cô nghe đâu. Em sợ em sẽ quên nó. Không sao đâu. Khi em kể điều bí mật cho một người biết giữ bí mật thì bí mật vẫn còn. Khi gặp cô, em sẽ nhớ là có hai người cùng giữ chung một bí mật.

(Nguyễn Ngọc Thuần, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2014, tr. 18 – 20)

Câu 1: Câu chuyện trong đoạn trích được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ mấy?

Trả lời:

- Câu chuyện được kể theo: Ngôi thứ nhất

Câu 2: Tại sao nhân vật “tôi” rất đau khổ và không dám cười nữa?

Trả lời:

Nhân vật “tôi” có một cái răng khểnh và đến trường bị các bạn trêu đùa.

Câu 3: Người bố đã giải thích cho nhân vật “tôi” như thế nào về nụ cười của em và nhiều điều bí mật ở những người xung quanh mình?

Trả lời:

Người bố đã nói với con mình rằng: “Bố thấy đẹp lắm! Nó làm nụ cười của con khác với những đứa bạn. Đáng lẽ con phải tự hào vì nó. Mỗi đứa trẻ có một điều kì lạ riêng...Con hãy quan sát đi rồi con sẽ thấy. Con sẽ biết rất nhiều điều bí mật về những người xung quanh mình”. 

Câu 4: Nhân vật “tôi” đã nói với cô giáo điều bí mật gì?

Trả lời:

Nhân vật “tôi” đã nói với cô giáo điều bí mật: Em nói thật! Mũi cô rất hồng. Em còn phát hiện một điều nữa, khi trợn mắt, mắt cô thật to. Những người có con mắt nhỏ không làm được như vậy đâu. Bố em nói đó là một điều bí mật.

Câu 5: Hãy nêu cảm nhận của em về nhân vật người bố trong đoạn trích.

Trả lời:

Từ lời nói của người bố với con, em nêu cảm nhận về nhân vật người bố. Ví dụ: Người bố hết sức tinh tế, quan tâm đến con, giúp con có được sự tự tin và hồn nhiên (nhận thấy dạo này con không cười, giải thích cho con về điều khác biệt rất đáng tự hào của mỗi người,...).

Câu 6: Nêu một bài học em rút ra được từ đoạn trích

Trả lời:

Bài học mà em rút ra là mỗi người đều có một điểm khác lạ, một giá trị riêng mà không ai giống ai. Mỗi chúng ta cần tự hào về điều riêng biệt của chính mình

Câu 7: Tìm số từ trong các câu sau và giải thích ý nghĩa của chúng:

a. Tôi có một cái răng khểnh.

b. Khi gặp cô, em sẽ nhớ là có hai người cùng giữ chung một bí mật.

Trả lời: 

a. Số từ: một => chỉ số lượng ít

b. Số từ: Hai => chỉ số lượng 

Câu 8: Tìm các phó từ bổ nghĩa cho danh từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Tôi ghét những đứa có hàm răng đều.

b. Mỗi đứa trẻ có một điều kì lạ riêng.

Trả lời:

a. những → bổ sung ý nghĩa chỉ số lượng nhiều (những đứa có hàm răng đều)

b. mỗi → bổ sung ý nghĩa chỉ số lượng ít, cá thể. (Mỗi đứa trẻ)

Câu 9: Tìm các phó từ bổ sung nghĩa cho động từ, tính từ trong những câu sau và cho viết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Từ đó, tôi không dám cười nữa

b. Tôi rất đau khổ

c. Khi cười, khuôn mặt con sẽ rạng rỡ

d. Con hãy quan sát đi rồi con sẽ thấy

Trả lời:

a. Từ đó, tôi không dám cười nữa.

- Phó từ không bổ sung ý nghĩa phủ định.

b. Tôi rất đau khổ.

- Phó từ rất bổ sung ý nghĩa mức độ.

c. Khi cười, khuôn mặt con sẽ rạng rỡ.

- Phó từ sẽ bổ sung ý nghĩa thời gian.

d. Con hãy quan sát đi rồi con sẽ thấy.

- Phó từ hãy bổ sung ý nghĩa cầu khiến, phó từ sẽ bổ sung ý nghĩa thời gian.

Bài tập 7 trang 26, 27 SBT Ngữ Văn 7 Tập 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách

đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ...

[...] Thầy ăn mặc theo kiểu xưa: bộ com- lê đen đã cũ lắm, nhưng chiếc ca-vát

vẫn luôn thắt chỉnh tề trên cổ. Thầy thường đội mũ nồi, bộ râu mép rậm lấm tấm bạc, đôi giày cũ và chiếc cặp da nâu cũng đã sờn rách.

Thầy luôn đăm chiêu nhưng hiền hậu. Chẳng bao giờ thầy cáu giận, gắt gỏng với chúng tôi. Cũng chẳng bao giờ thầy bỏ một tiết lên lớp nào, kể cả những hôm thầy yếu mệt, sốt cao, giọng run run.

Các cô giáo, thầy giáo trong trường kể rằng thầy là một trong những hoạ sĩ học khoá đầu tiên của Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương. Bạn học của thầy, hầu hết đều đã trở thành những họa sĩ tên tuổi, có người nổi tiếng cả ở nước ngoài, riêng thầy Bản chỉ là một giáo viên dạy vẽ bình thường ở một trường cấp hai.

Thầy dạy chúng tôi kẻ chữ, vẽ cái sọt giấy, lọ mực, viên gạch, thỉnh thoảng mới có một bài “vẽ tự do”: cảnh chùa hoặc cảnh lao động ở vườn trường. Thầy dạy rất ân cần, tỉ mỉ, chỉ bảo cho chúng tôi từng li từng tí: cách tô màu, đánh bóng, cả cách gọt bút chì thế nào cho đẹp và dễ vẽ. Nhưng thú vị hơn cả là những câu chuyện của thầy. Thầy thường nói say sưa với chúng tôi về hội hoạ, về màu sắc và đường nét, về cái thế giới thứ hai, thế giới rực rỡ, kì lạ của những bức tranh, những cánh cửa mở tới những khu vườn tốt lành và đẹp đẽ. Có những lần, thầy đưa chúng tôi về nhà thầy chơi, về gian gác hẹp xếp đầy sách vở và tranh ảnh. Thầy đưa chúng tôi xem những quyển sách của các bậc danh hoạ. Thầy cũng cho chúng tôi xem những bức tranh thầy vẽ, những bức tranh nhỏ, vẽ rất tỉ mỉ những bình hoa nhiều màu, những ngôi nhà, những em bé hàng xóm... Thầy vẽ chậm, vẽ kĩ, không hiểu có đẹp không, nhưng tranh của thầy ít được mọi người chú ý. Chúng tôi có đi hỏi nhưng chẳng mấy ai biết tên hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản.

(Xuân Quỳnh, Thầy giáo dạy vẽ của tôi, Trần Hoài Dương tuyển chọn, Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 5, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2016, tr. 178 - 180)

Câu 1: Câu chuyện trong đoạn trích được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ mấy?

Trả lời:

Câu chuyện trong đoạn trích được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ nhất (xưng “tôi”)

Câu 2: Tìm một số chi tiết miêu tả trang phục của thầy giáo dạy vẽ. Những chi tiết đó cho em cảm nhận gì về nhân vật?

Trả lời:

- Những chi tiết miêu tả về thầy dạy vẽ:

+ Thầy ăn mặc theo kiểu xưa: bộ com-lê đen đã cũ lắm, nhưng chiếc ca-vát vẫn luôn thắt chỉnh tề trên cổ.

+ Thầy thường đội mũ nồi... đôi giày cũ và chiếc cặp da nâu cũng đã sờn rách.

- Những chi tiết này cho em cảm nhận thầy dạy vẽ là một người thầy giáo nghèo, giản dị, khiêm nhường và rất cẩn thận, nghiêm túc trong mọi công việc.

Câu 3: Nhân vật "tôi" đã cảm nhận như thế nào về tính cách của thầy giáo dạy vẽ?

Trả lời:

Nhân vật tôi thấy thầy giáo là một người: Thầy luôn đăm chiêu nhưng hiền hậu. Chẳng bao giờ thấy cáu giận, gắt gỏng với chúng tôi. Cũng chẳng bao giờ thây bỏ một tiết lên lớp nào, kể cả những hôm thầy yếu mệt, sốt cao, giọng run run.

Câu 4: Tìm số từ trong các câu sau và giải thích ý nghĩa của chúng:

a. Thầy dạy chúng tôi cách đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ...

b. Thầy thường nói say sưa với chúng tôi về hội hoạ, về màu sắc và đường nét, về cái thế giới thứ hai, thế giới rực rỡ, kì lạ của những bức tranh, những cánh cửa mở tới những khu vườn tốt lành và đẹp đẽ.

Trả lời:

a. Số từ mười bảy (mười bảy năm) chỉ số lượng xác định; số từ Năm (lớp Năm) chỉ thứ tự của sự vật.

b. Số từ hai đứng sau từ thứ chỉ thứ tự của sự vật (thứ hai).

Câu 5: Tìm các phó từ bổ nghĩa cho danh từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Nhưng thú vị hơn cả là những câu chuyện của thầy

b. Thầy vẽ chậm, vẽ kĩ, không hiểu có đẹp không, nhưng tranh của thầy ít được mọi người chú ý

Trả lời:

a. Nhưng thú vị hơn cả là những câu chuyện của thầy.

- Phó từ những chỉ số lượng nhiều, không xác định.

b. Thầy vẽ chậm, vẽ kĩ, không hiểu có đẹp không, nhưng tranh của thầy ít được mọi người chú ý.

- Phó từ mọi chỉ số lượng nhiều, không xác định.

Câu 6: Tìm các phó từ bổ nghĩa cho động từ, tính từ trong những câu sau và cho viết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Thầy dạy rất ân cần, tỉ mỉ, chỉ bảo cho chúng tôi từng li từng tí: cách tô màu, đánh bóng, cả cách gọt bút chì thế nào cho đẹp và dễ vẽ

b. Thầy cũng cho chúng tôi xem những bức tranh thầy vẽ, những bức tranh nhỏ, vẽ rất tỉ mỉ những bình hoa nhiều màu, những ngôi nhà, những em bé hàng xóm...

Trả lời:

a. Phó từ: cho => chỉ sự cầu khiến

b. Phó từ: cũng cho => chỉ sự tiếp diễn 

Bài tập 8 trang 27, 28, 29 SBT Ngữ Văn 7 Tập 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách

đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ...

[...] Chẳng hiểu vì thầy không có tài hay không gặp may, tuy thầy rất yêu hội

hoạ, dành hết sức lực và tiền bạc cho nó. Vợ con thầy đều đã mất từ lâu, thầy bảo: “Giờ đây, nguồn vui của thầy chỉ là công việc và các em học sinh”. Chúng tôi đều rất quý và thương thầy. Có lần, thầy đến lớp, vẻ nghiêm trang, xúc động, thầy nói với chúng tôi:

- Ở triển lãm mĩ thuật thành phố người ta có bày một cái tranh của tôi...

Thầy mỉm cười rụt rè, khẽ nói thêm: “Các em đến xem thử...”

Chiều hôm ấy, mấy đứa chúng tôi trong đó có Châu và Hiển - rủ nhau đến phòng triển lãm. Trong gian phòng chan hoà ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ, trong một chiếc khung cũ. Bởi tranh vẽ rất cẩn thận một lọ hoa cúc, mấy quả cam, những cánh hoa vàng rơi trên mặt bàn... Mọi người đi lướt qua, chẳng ai để ý tới bức tranh của thầy. Chúng tôi ngồi xuống cạnh bàn ghi cảm tưởng của người xem: chẳng thấy ý kiến nào khen ngợi hoặc nhắc đến bức tĩnh vật của thầy giáo chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi thấy thầy Bản cũng đến, thầy đi lại trong phòng triển lãm, nhìn người xem rồi lại nhìn về cái tranh của mình, bồn chồn, hồi hộp. Rồi sau cảm thấy đứng mãi ở đấy không tiện, thầy lại lóc cóc ra lấy xe đạp, đạp đi.

Càng thương thầy, chúng tôi càng giận những người xem vô cùng. Nảy ra một ý, chúng tôi bàn khẽ với nhau, rồi mở quyển sổ ghi cảm tưởng, chúng tôi thay nhau viết:

“Trong phòng triển lãm này, chúng tôi rất thích bức tranh của hoạ sĩ Nguyễn

Thừa Bản!”

“Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản rất đẹp. Hoạ sĩ là một người

có tài năng và cần cù lao động. Kính chúc hoạ sĩ mạnh khoẻ...”

Rồi chúng tôi kí những cái tên giả dưới các ý kiến đó. Ngoài mấy đứa chúng

tôi, không ai biết việc này.

Vài hôm sau, thầy Bản đến lớp. Bối rối vì cảm động, thầy báo tin:

- Các em ạ... bức tranh ở triển lãm của tôi... cũng được một số người thích...

họ có ghi cảm tưởng... Ban tổ chức có đưa cho tôi đọc... tôi có ghi lại...

Thầy húng hắng ho rồi nói thêm vẻ ân hận:

- Bức tranh ấy tôi vẽ chưa được vừa ý... Nếu vẽ lại, tôi sẽ sửa chữa nhiều...

Thương thầy quá, chúng tôi suýt oà lên khóc. [... ]

Có lẽ đến phút cuối cuộc đời, thầy cũng không biết rằng: chính chúng tôi - những học trò nhỏ của thầy - đã viết vào quyển sổ cảm tưởng trong kì triển lãm ấy. Bây giờ thây Bản không còn nữa!

Tối ấy, ngồi với nhau, chúng tôi nhắc nhiều và nhớ nhiều đến thầy...

“Thưa thầy giáo dạy vẽ kính yêu!

Viết những dòng này, chúng em muốn xin thầy tha lỗi cho chúng em, và muốn một lần nữa được thưa với thầy rằng: chúng em biết ơn thầy, mãi mãi biết ơn thầy...”

(Xuân Quỳnh, Thầy giáo dạy vẽ của tôi, Trần Hoài Dương tuyển chọn, Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 5, Sđd, tr. 180 - 182)

Câu 1: Bức tranh của thầy Bản trong phòng triển lãm được miêu tả như thế nào?

Trả lời:

Bức tranh của thầy Bản trong phòng triển lãm được miêu tả : Trong gian phòng chan hoà ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ, trong một chiếc khung cũ. Bởi tranh vẽ rất cẩn thận một lọ hoa cúc, mấy quả cam, những cánh hoa vàng rơi trên mặt bàn...

Câu 2: Tại sao các học trò của thầy Bản lại ghi cảm tưởng về bức tranh của thầy?

Trả lời:

Học sinh của thầy Bản ghi cảm tưởng dưới bức tranh của thầy bởi vì học sinh thương thầy do thấy người xem ở triển lãm không ai để tâm đến bức tranh mà thầy vẽ.

Câu 3: Những lời nói của thầy Bản với học trò về bức tranh của mình cho em cảm nhận về nhân vật như thế nào?

Trả lời:

Những lời nói của thầy Bản với học trò về bức tranh của mình cho em cảm nhận về nhân vật: thầy là một người khiêm tốn.

Câu 4: Tại sao nhân vật “tôi” và các bạn lại muốn “xin thầy tha lỗi”?

Trả lời:

Nhân vật “tôi” và các bạn lại muốn “xin thầy tha lỗi” vì Có lẽ đến phút cuối cuộc đời, thầy cũng không biết rằng: chính chúng tôi - những học trò nhỏ của thầy - đã viết vào quyển số cảm tưởng trong kì triển lãm ấy. Bây giờ thầy Bản không còn nữa!

Câu 5: Em có đồng tình với hành động ghi cảm tưởng và kí những cái tên giả của nhân vật "tôi" và các bạn trong phòng triển lãm không? Vì sao?

Trả lời:

Em đồng ý với hành động của nhân vật “tôi” và các bạn khi viết cảm tưởng và kí tên lên bức tranh của thầy Bản. Bởi vì đây là một hành động xuất phát từ lòng tốt của các nhân vật khi muốn thầy Bản không cảm thấy buồn vì bức tranh của mình không được người khác ghi nhận

Câu 6: Nêu một bài học em rút ra được từ câu chuyện.

Trả lời:

Bài học: Nếu có cơ hội hãy nói với những người xung quanh ta những lời tốt đẹp, khen một chút cũng được.

Câu 7: So sánh các cặp câu dưới đây và nhận xét về tác dụng của việc mở rộng thành phần trạng ngữ, vị ngữ của câu bằng cụm từ.

a.

- Trong gian phòng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc.

- Trong gian phòng chan hoà ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc.

b.

- Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản đẹp.

- Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản rất đẹp.

Trả lời:

a. trạng ngữ trong câu thứ hai miêu tả rõ hơn đặc điểm của gian phòng (chan hoà ánh sáng).

b. vị ngữ trong câu thứ hai nhấn mạnh hơn về đặc điểm (rất đẹp) Bức tranh tĩnh vật của họa sĩ Nguyễn Thừa Bản.

Câu 8: Tìm các phó từ bổ nghĩa cho động từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì?

a. Chúng tôi đều rất quý và thương thầy

b. Các em ạ... bức tranh ở triển lãm của tôi... cũng được một số người thích...

Trả lời:

a. Chúng tôi đều rất quý và thương thầy.

- Phó từ “rất” bổ sung ý nghĩa về mức độ

b. Các em ạ... bức tranh ở triển lãm của tôi... cũng được một số người thích...

- Phó từ “cũng” bổ sung ý nghĩa về sự tiếp diễn

Câu 9: Tìm các phó từ bổ nghĩa cho danh từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ, trong một chiếc khung cũ.

b. Mọi người đi lướt qua, chẳng ai để ý tới bức tranh của thầy.

Trả lời:

a. So với => chỉ sự khả năng

b. Chẳng => chỉ sự phụ định

Bài tập 9 trang 30, 31 SBT Ngữ Văn 7 Tập 1: Đọc văn bản Chiều dày của bức tường của Phạm Sông Hồng và trả lời các câu hỏi:

Tôi đang ở trong căn phòng cũ của mình.

Chỗ này ngày xưa tôi treo một bức tranh phong cảnh.

Bức tranh ấy đã làm tôi như được gần thiên nhiên hơn giữa các toà nhà khối hộp góc cạnh khô khan và đơn điệu.

Còn bây giờ chị treo ở đấy cái lồng bàn nhựa xanh.

Chỗ kia là chỗ của chiếc lá phong tôi mang từ Nga về với bao kỉ niệm. Rồi gió to, rồi nắng to, rồi độ ẩm lớn, tất cả đã ập tới đập vào cái lá mỏng manh ấy cho đến khi nó chỉ còn là những cái gân nhỏ xíu yếu ớt và cuối cùng tan ra, bay đi. Nhưng với tôi bao giờ chiếc lá phong vẫn cứ ở chỗ đó, ở chỗ của nó.

Còn bây giờ cái tủ đã che kín khoảng tường ấy.

Chỗ kia nữa với những dáng người buồn vui trên bức tường, có được từ những lần tôi nhìn rất lâu vào những vệt vôi vô tình và tưởng tượng ra, nay phủ lớp ve xanh.

Chẳng còn ở đấy dáng người giống dáng tôi hồi bé.

Không thấy đâu hai mái đầu đang chụm lại thì thẩm.

Cái mũi cao hếch với hàng mi rợp buồn ở góc tường kia làm tôi thẫn thờ bao

lần giờ nơi nao?

Tất cả, tất cả đều xa lạ, xa lạ quá...

Cuộc đến thăm căn phòng cũ đã không như tôi tưởng.

[...] Về đến nhà mình, nhìn mọi vật trong phòng, tôi bỗng nhớ tới người chủ cũ của nó. Không biết chỗ hiện nay tôi đặt giá sách người chủ cũ đã gửi gắm tình cảm gì vào đó? Bức tường ấy đã chứng kiến những gì trong phần đời của họ?

Chẳng hiểu lớp vôi quét đã phủ lên những kỉ niệm nào của người chủ trước đây?

Rồi tôi chợt giật mình nhận ra: Lớp kỉ niệm của tôi trên những bức tường sẽ luôn nằm ở giữa lớp kỉ niệm của người đến trước và người đến sau tôi.

Và những bức tường cứ dày lên cùng với những lớp kỉ niệm ấy.

(Phạm Sông Hồng, Chiều dày của bức tường, Trần Hoài Dương tuyển chọn, Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 3, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2016, tr. 118 - 119)

Câu 1: Câu chuyện được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ mấy?

Trả lời:

Câu chuyện được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ nhất (xưng “tôi”)

Câu 2: Căn phòng cũ của nhân vật "tôi" đã thay đổi như thế nào? Trước sự thay đổi đó, nhân vật "tôi" có cảm xúc gì?

Trả lời:

- Căn phòng của nhân vật “tôi” đã thay đổi rất nhiều:

+ Ngày xưa treo một bức tranh phong cảnh, còn bây giờ treo một chiếc lồng bàn nhựa xanh

+ Trước kia có chỗ để lá phong còn bây giờ chiếc tủ đã che kín khoảng tường ấy

+ Trước kia tôi còn là một đứa trẻ ở trong căn phòng nhưng giờ đây tôi đã là một người lớn trong căn phòng ấy

- Cảm xúc của nhân vật “tôi” trước sự thay đổi đó: Tôi cảm thấy ngạc nhiên, ngỡ ngàng và có chút gì đó tiếc nuối trước sự thay đổi của căn phòng

Câu 3: Tại sao nhân vật “tôi” chợt giật mình nhận ra lớp kỉ niệm của mình trên những bức tường sẽ luôn nằm giữa lớp kỉ niệm của người đến trước và người đến sau?

Trả lời:

Nhân vật “tôi” đã chứng kiến sự thay đổi của bức tường trong căn phòng cũ và suy nghĩ về những bức tường trong ngôi nhà mình đang ở.

Câu 4: Em hiểu thế nào về ý nghĩa nhan đề: Chiều dày của bức tường?

Trả lời:

Ý nghĩa nhan đề: Chiều dày của bức tường: Có nghĩa là chỉ những kỉ niệm theo thời gian.

Câu 5: Tìm một từ thuộc từ loại số từ trong văn bản trên

Trả lời:

Số từ “một”

Câu 6: Câu nào sau đây có phó từ đi kèm danh từ?

a. Tôi đang ở trong căn phòng cũ của mình.

b. Còn bây giờ chị treo ở đấy cái lồng bàn nhựa xanh.

c. Chẳng còn ở đấy dáng người giống dáng tôi hồi bé.

d. Và những bức tường cứ dày lên cùng với những lớp kỉ niệm ấy.

Trả lời:

Đáp án: d. Và những bức tường cứ dày lên cùng với những lớp kỉ niệm ấy.

Câu 7: Tìm một câu trong đoạn trích có hai phó từ khác nhau và giải thích ý nghĩa của các phó từ đó.

Trả lời:

Cuộc đến thăm căn phòng cũ đã không như tôi tưởng.

+ Phó từ đã bổ sung ý nghĩa thời gian trước hiện tại, cho biết hoàn thành một việc gì đó trước khi nói

+ Phó từ không bổ sung ý nghĩa phủ định.

icon-date
Xuất bản : 09/09/2022 - Cập nhật : 09/09/2022