logo

Soạn bài: Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận (chi tiết)


Soạn Văn 8: Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận


I. Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận

1. a. Những từ ngữ biểu lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả: muốn hòa bình, phải nhân nhượng, càng lấn tới, quyết tâm cướp nước ta, thà hi sinh, nhất định không, phải hi sinh, nhất định,..

- Những câu cảm thán trong văn bản trên:

      + Hỡi đồng bào toàn quốc!

      + Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

      + Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.

- Hai văn bản “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của chủ tịch Hồ Chí Minh và văn bản “Hịch tướng sĩ’ của Trần Quốc Tuấn tương đồng với nhau trong việc sử dụng từ ngữ và câu văn truyền cảm.

b. Tuy nhiên, 2 văn bản đó vẫn được coi là văn bản nghị luận chứ không phải văn bản biểu cảm, vì:

      + Mục đích viết ra để tác động đến người đọc bàn về vấn đề quan trọng của đất nước, tác động tới ý chí của người đọc chứ không phải dùng để bộc lộ cảm xúc.

      + Bài văn nghị luận có tính thuyết phục hơn khi được sử dụng thêm yếu tố biểu cảm. Và trong đó yếu tố biểu cảm chỉ là yếu tố phụ giúp cho luận cứ được chặt chẽ thuyết phục hơn.

c. Những câu văn ở cột 2 có sức truyền cảm hơn những câu văn ở cột 1 vì trong cột 2 được sử dụng những từ ngữ bày tỏ thái độ, tình cảm của người viết hơn, giàu chất văn, giàu cảm xúc hơn. Khi đưa yếu tố biểu cảm vào giúp cho bài văn nghị luận tăng sức thuyết phục cho người nghe và người đọc, tác động trực tiếp tới tình cảm cảm xúc của con người.

2. Thông qua tìm hiểu các văn bản như Hịch tướng sĩ và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ta thấy để phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận ta cần phải biết cách kết hợp nhuần nhuyễn và hợp lí giữa các yếu tố biểu cảm với nhau.

a. Đầu tiên trước hết đối với những người viết văn thì vừa phải suy nghĩ đưa ra các luận điểm vừa phải thực sự để cảm xúc của mình được thể hiện trong bài viết bộc là xúc động nhất.

b. Để viết được những câu "Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả…" hay "uốn lưỡi cú diều",.. thì đối với người viết là người phải có những cảm xúc sâu đậm rung cảm, một lòng yêu nước nồng nàn và nỗi căm thù giặc sâu sắc vừa phải có khả năng diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ.

c. Ý kiến "Càng dùng nhiều từ ngữ biểu cảm, càng đặt nhiều câu cảm thán thì giá trị biểu cảm càng tăng" là không đúng, vì:

Việc ta sử dụng quá nhiều yếu tố biểu cảm sẽ dẫn tới bài viết không còn rõ nghĩa về nội dung bố cục lộn xộn ý không tập trung được hết vấn đề cần biểu đạt, không rõ trọng tâm. Trong văn nghị luận ta chỉ nên coi yếu tố biểu cảm là phụ chứ không phải là nhồi nhét nó để thể hiện sự đưa đẩy bóng bẩy bằng ngôn từ.


2. Luyện tập

Câu 1 (trang 97 Ngữ Văn 8 Tập 2)

a. - Các yếu tố biểu cảm trong phần I – Chiến tranh và người bản xứ (ở văn bản Thuế máu) được thể hiện qua những hình ảnh so sánh,liên tưởng, những từ ngữ đối lập nhau:

      + Những tên da đen bẩn thỉu >< những đứa con yêu, những người bạn hiền, những chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do

      + Chiến tranh vui tươi >< rời xa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường

      + Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi >< xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái.

      + Bỏ xác tại những miền hoang vu, thơ mộng

      + Lấy máu mình tưới lên những vòng nguyệt quế…

      + Khạc ra từng miếng phổi

=> Các từ ngữ đối lập mang hàm ý mỉa mai châm biếm.

b. Tác dụng của những từ ngữ này:

- Giúp người đọc thấy rõ được bộ mặt thâm độc, giả nhân giả nghĩa cũng như âm mưu quỷ quyệt của bọn thực dân Pháp

- Những từ ngữ này làm cho tính mỉa mai, trào phúng của bài viết mạnh mẽ hơn.

Câu 2 (trang 97 Ngữ Văn 8 Tập 2)

- Những cảm xúc của tác giả được biểu hiện qua đoạn văn:

      + Nỗi buồn trước tình trạng học tủ, học vẹt của học sinh.

      + Những dằn vặt, trăn trở của một nhà giáo trước thực tế đáng buồn của ngành giáo dục .

- Để đoạn văn không chỉ có sức thuyết phục lí trí mà còn gợi cảm, tác giả đã sử dụng :

      + Giọng văn mang đầy tâm sự chứa đựng nỗi băn khoăn , day dứt của người viết.

      + Câu văn được viết dưới dạng câu hỏi tu từ :

          * Nói làm sao cho…

          * Không có lí do gì phải nhấn bút…

          * Sao không có một "hãng" nào đó in ra..

      + Từ ngữ thể hiện thái độ xuất hiện nhiều: nỗi khổ tâm, đeo một cái nghiệp, không có lí do gì, như con vẹt, việc gì còn phải lôi thôi,..

Câu 3 (trang 98 Ngữ Văn 8 Tập 2)

Viết đoạn văn

      Lối học vẹt học tủ đang ngày càng trở nên phổ biến trong thế hệ học sinh ngày nay. Chính điều ấy đã tác động một phần không nhỏ tới sự tiếp thu nhìn nhận kiến thức một cách thực sự của chính các học sinh dẫn đến học yếu kém sa sút. Sự phụ biến ngày càng mở rộng hơn và đang dần trở thành một trong những vấn nạn trong môi trường văn hóa giáo. Thế nào là học vẹt? Ta có thể hiểu là, học vẹt là học một cách máy móc thụ động thuộc lòng mà không hiểu gì. Chỉ đọc thuộc lòng những nội dung lí thuyết cần thiết một cách qua loa đại trà mà không hiểu đúng bản chất. Còn học tủ nghĩa là khi vào mùa thi cử học sinh chỉ cần học đúng phần được cho là cần thiết sẽ có trong bài thi và sử dụng nói với bản chất để đối phó qua loa tạm thời. Hai cách học như trên khiến cho học sinh ngày nay không thực sự hiểu được kiến thức bản chất, giảm tăng chất xám thiếu sự sáng tạo tìm tao ham học hỏi của tuổi trẻ. Ta cũng không thể phủ định được tác dụng của học vẹt và học tủ đối với đời sống con người. Tuy nhiên, đối với hai cách học này ta cần áp dụng nó vào những hoàn cảnh trường hợp cần thiết và hợp lí. Vì sẽ có những lúc ta học tử nhưng không trúng tủ dẫn đến bài làm không tốt.  Cả hai hình thức này chỉ có tính chất tạm thời, nó không đem lại lợi ích lâu bền cho vốn kiến thức, tư duy lâu dài cần thiết trong tương lai. Chính điều ấy mà ta cần phải nhìn nhận nó để đánh giá được lợi ích và tác hại của lối học vẹt, học tủ đem lại. Đưa ra cho chính bản thân phương pháp cách học sao cho đem đến cho mình kết quả tốt nhất để không phụ sự mong đợi của cha mẹ, thầy cô.

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 05/02/2021

Tham khảo các bài học khác