logo

Phân tích Mưa Xuân của Nguyễn Bính

Mùa xuân là mùa của lễ hội, mùa của đôi lứa hẹn hò, trao nhau những lời hẹn ước. Đến với nhà thơ Nguyễn Bính, mùa xuân được cảm nhận tinh tế qua cơn mưa mùa xuân. Dưới đây là bài văn Phân tích Mưa xuân của nhà thơ Nguyễn Bính


Phân tích Mưa Xuân của Nguyễn Bính - Mẫu 1

Nếu phải tìm bản nhạc hay nhất, có lẽ tôi sẽ chọn văn chương. Bởi chỉ khi đến với văn chương, người nghệ sĩ mới được tự do để trái tim dẫn dắt, được thể hiện quan niệm của chính mình và rồi mang đến cho người đọc biết bao giai điệu cảm xúc với nhiều cung bậc. Và nhà thơ đã để tác phẩm “ Mưa xuân” của mình là nốt ngân đầy sáng tạo trong bản hòa tấu của văn học Việt Nam. Bài thơ là một sáng tạo độc đáo về nội dung và nghệ thuật.

Nguyễn Bính sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo, mồ côi cha mẹ sớm. Nguyễn Bính là một người thông minh, nhạy cảm với thời đại đầy biến động. Ông làm thơ từ rất sớm với nhiều thể loại khác nhau: thơ, truyện thơ, chèo,.. Thơ ông mang đậm chất quê, hồn quê. Bài thơ "Mùa xuân” là đứa con tinh thần đậm chất giản dị, thanh bình của làng quê Việt Nam như chính tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Bính vậy! Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của cảnh vật thiên nhiên, đất trời trong một chiều mưa xuân. Tác giả miêu tả sự sống bừng tỉnh, sinh sôi nảy nở của muôn loài qua một buổi mưa xuân.

Câu chuyện Mưa Xuân được thi sĩ mở đầu không phải là cảnh đẹp xuân, không phải tiết trời xuân mà là hình ảnh "em”:

“Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già.

Lòng trẻ còn như vuông lụa trắng

Mẹ già chưa bán chợ làng xa”

Nhân vật trữ tình "em” hiện lên là một thiếu nữ làm nghề dệt lụa. Người con gái ấy quanh năm dệt lụa với mẹ già. Chắc hẳn đây là một cô gái đẹp, tấm lòng cô trong sáng, thuần khiết, được tác giả so sánh như một “vuông lụa trắng”. Em vẫn còn trẻ nên chưa được mẹ già “gả bán”. Cách nói so sánh giản dị, giàu tính tượng hình mà cũng đầy tinh tế. Cô gái trẻ này chính là mẫu người thiếu nữ thôn quê trong trắng, thuần khiết, nét đẹp giản dị thường xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính.

Nhà thơ Nguyễn Bính rất hay và rất tài tình cảm nhận những cơn mưa xuân:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ng

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”

Mưa xuân thường mang đến cảm giác nhẹ nhàng, êm ái như gieo vào lòng người biết bao nỗi niềm xao xuyến. Hình ảnh "mưa xuân”, "hoa xoan”, “ hội chèo” đều là những hình ảnh quen thuộc của mùa xuân. Từ láy "phơi phới” diễn tả niềm vui, làm khổ thơ sống động hơn, thổi hồn vào nhân vật "em”. Dường như không phải đất trời, thiên nhiên “phơi phới” mà chính là lòng "em” đang "phơi phới” cùng sắc xuân. Hình ảnh cô thiếu nữ ngồi khung cửi dệt vải nay đã ngập trong sắc xuân, trong hội chèo, hay đang mong ngóng người bạn trai của mình. Phải chăng, "em” đã biết yêu?

“Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em dừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Cỏ lẽ là em nghĩ đến anh…”

Nhà thơ Nguyễn Bính diễn tả tâm trạng bồi hồi có chút e thẹn của cô gái khi nghĩ đến chàng. Em ngừng thoi lại là bởi lòng đã giăng tơ một mối tình. Mối tình chớm nở làm em xao xuyến,"hai má bừng đỏ”. Đó là nét đáng yêu đáng quý của người con gái khi mới biết yêu. Người con gái không lúc nào ngừng nhớ về anh, nghĩ về anh "Cả trong mơ còn nhớ”. Bởi vậy, ngày hội chèo đến, “em xin phép mẹ vội vàng đi”

Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói:

"Làm sao sống được mà không yêu,

Không nhớ, không thương một kẻ nào?”

Quả thật, tình yêu làm cho con người ta  không còn e ấp, rụt rè mà chủ động, mạnh mẽ hơn. Người con gái ấy đi tìm người mình yêu:

“Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

Em mải tìm anh chả thiết xem

Chắc hẳn đêm nay dường cửi lạnh

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em”

"Em” lặn lội sang thôn Đoài nhưng không hề có ý xem hội mà tâm trí của cô chỉ hướng đến người thương trong lòng, cô mải miết đi tìm anh trong vô thức. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa thật khéo léo trong hai câu cuối. Mọi khi cô luôn gắn bó với khung cửi và thoi ngà nhưng hôm nay cô đã bỏ mặc tất cả để đi tìm chàng, đi tìm hạnh phúc của đời mình. Thế nhưng, cô gái chờ mãi đâu có thấy chàng trai tới:

“Chờ mãi anh sang chả sang

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”

Câu thơ như lời trách móc của người con gái. Tiếp nối mạch cảm xúc, tâm trạng bối rối yêu thương, nhớ nhung da diết nay đã trở thành nỗi nhớ của riêng "em”

“Mình em lầm lụi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê,

Áo em che đầu mưa nặng hạt.

Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya”

Nếu như ở những khổ thơ trước, mưa xuân mang lại cho người đọc cảm giác phơi phới, tràn ngập sức sống thì đến khổ thơ này, mưa xuân làm cho lòng người xao xuyến, bồi hồi, nhớ thương. Bốn câu thơ ngắn gọn nhưng đã diễn tả hết nỗi buồn tủi của em qua các từ "mình em, lầm lụi, áo em, lạnh lùng, tủi, canh khuya”. Khoảng cách giữa nhân vật trữ tình “ em” và "anh” cũng dường như xa cách dần, không phải "một thôi đê” nữa mà nó dài "một dải đê”. Người con gái ấy càng yêu, càng thương bao nhiêu thì càng thất vọng bấy nhiêu. “Hoa xoan đã nát dưới chân giày” như diễn tả nỗi lòng buồn đau của cô gái. Hội đã tan, mùa xuân đã cạn ngày. Em đâu còn cơ hội để gặp anh lần nữa.

Thế nhưng, nhân vật trữ tình "em” vẫn luôn tin tưởng vào tình yêu lứa đôi, vẫn mong một ngày nào đó em sẽ gặp anh:

“ Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây

Bao giờ chèo Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay”

Hai chữ "anh ạ!” vang lên như một lời gọi tha thiết. Em luôn hi vọng mùa xuân tới có thể gặp được anh. Điệp ngữ "bao giờ” lặp đi lặp lại trong khổ thơ, nó như một sự ngóng trông, mong mỏi của cô gái trong sự chờ đợi vô vọng. Bao giờ là không biết đến khi nào mới có thể gặp lại anh. Thời gian ngoằng ngoẵng, nỗi nhớ vô tận.

Bằng một hồn thơ chân chất, bình dị, nhà thơ Nguyễn Bính đã khắc họa bức tranh quê hương và tình cảm người con gái thật sinh động. Hình ảnh cô thiếu nữ mới lớn hiện lên với một tình yêu thuần khiết trong sáng và một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu lứa đôi. Bài thơ “Mưa xuân” đã diễn tả trọn vẹn cảm xúc của "em”.

Phân tích Mưa Xuân của Nguyễn Bính

Phân tích Mưa Xuân của Nguyễn Bính - Mẫu 2

Nếu phải chọn một loài hoa đẹp nhất, có lẽ tôi sẽ chọn cánh hồng còn e ấp trong sương đêm. Nếu phải chọn một thanh âm cao nhất, tôi sẽ chọn tiếng hót thiết tha của loài chim họa mi. Nếu phải chọn một bản nhạc hay nhất, có lẽ tôi sẽ chọn văn chương. Tiếng ca của văn chương bao giờ cũng thiết tha, rạo rực, giai điệu của văn chương bao giờ cũng đằm thắm và ngọt ngào. Và một trong những bản nhạc hay nhất của văn chương chạm tới trái tim người đọc nhất phải kể đến tác phẩm “ Mưa xuân” của nhà thơ Nguyễn Bính. Bài thơ lưu lại dấu ấn bởi chủ đề và hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo.

Nguyễn Bính được xem là một trong những nhà thơ xuất sắc của làng quê Việt Nam. Thơ của ông mang bản chất trữ tình hồn hậu, chân chất như chính tính cách của những người nông dân hiền lành chất phác. Bài thơ “Mưa xuân” nằm trong tập Lỡ bước sang sang (1940) đã cho chúng ta thấy được phong cách nghệ thuật đặc trưng này của nhà thơ.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh cô gái bên khung cửi nhỏ

“Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già.

Lòng trẻ còn như vuông lụa trắng

Mẹ già chưa bán chợ làng xa”

Cô gái hiện lên với công việc dệt lụa quanh năm, ngày ngày gắn bó với khung cửi. Đây là một hình ảnh thơ rất đẹp, gợi ra hình ảnh của của cô gái chăm chỉ, tần tảo, gắn bó với công việc. Hình ảnh cô gái chịu thương chịu khó gợi lên cuộc sống nghèo khó của vùng quê nông thôn. Hiện lên cùng hình ảnh cô gái là người mẹ già. Họ nương tựa vào nhau sống. Nhà thơ miêu tả rất chân thật hình ảnh cô thiếu nữ mới lớn "lòng trẻ còn như vuông lụa trắng”. Nghệ thuật so sánh được thi sĩ sử dụng rất tài tình. Hình ảnh cô con gái còn trẻ nên chưa được mẹ gả chồng. 

Khổ thơ tiếp theo, nhà thơ miêu tả khung cảnh đất trời mưa xuân

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”

Mưa xuân bao phủ khắp không gian trời đất, nó như màn sương khói mờ ảo. Từ láy "phấp phới” diễn tả tâm trạng vui tươi, tràn ngập sức sống của mùa xuân. Mưa xuân như luồng gió mới làm cho vạn vật sinh sôi, nảy nở, khoe hương, khoe sắc. Hội chèo là nét văn hóa đặc trưng của mùa xuân. Không khí tưng bừng của hội chèo dường như xua tan không gian im lặng của hai mẹ con ngày ngày bên khung cửi. Thời tiết mùa xuân "phơi phới” hay cũng chính là nhân vật "em” đang mong chờ, háo hức đi xem hội.

Niềm mong ngóng của cô gái đi xem hội hay chính là nỗi niềm tương tư, thầm thương trộm nhớ một mối tình, một chàng trai trong lòng:

“Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em dừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh…”

Người con gái ngày  ngày bên khung cửi dệt lụa nay đã “dừng thoi lại”. Phải chăng lòng em đã giăng tơ một mối tình? Phải chăng "em” đã biết yêu? Hình ảnh em với hai má bừng đỏ thật đáng yêu, đáng mến. Đó là nét thường tình ta bắt gặp của một người con gái mới lớn, chớm nở với tình yêu. Người con gái ấy khi yêu bao giờ cũng nhớ nhung về người mình yêu, mình thương "Có lẽ là em nghĩ đến anh..” Câu thơ vang lên như một lời khẳng định chắc nịch đó là anh. Bởi vậy, em luôn tin rằng anh “ Thế nào anh ấy chẳng sang xem”.

Tiếng gọi của tình yêu, tiếng gọi của trái tim đã thôi thúc bước chân của cô 

“Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

Em mải tìm anh chả thiết xem

Chắc hẳn đêm nay dường cửi lạnh

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em”

Nhân vật em vội vàng, khẩn trương sang thôn Đoài để mong ngóng được gặp chàng trai của mình. Trái tim thổn thức của tình yêu đã dẫn lối cho cô gái, “ Yêu nhau mấy núi cũng chèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”. Khoảng cách từ xa bỗng chốc trở thành gần. Thế nhưng người thiếu nữ đâu có thiết xem hội chèo mà cô gái ấy mải miết tìm anh, luôn mong gặp anh. Cô càng tìm, càng mong bao nhiêu thì cô càng buồn bấy nhiêu. Đáp lại nỗi niềm mong chờ của cô, chàng trai đã không tới “Chờ mãi anh sang anh chả sang”. Câu thơ như một lời trách móc của cô gái với chàng trai. Tuy chàng trai ấy không đến nhưng ở cô gái vẫn mang niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, cô sẽ gặp được chàng trai vào mùa xuân

“ Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây

Bao giờ chèo Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay”

Bài thơ Mưa Xuân được Nguyễn Bính viết theo thể thơ Tứ Tuyệt Trường Thiên. Đó là mùa xuân ở vùng quê bắc bộ những năm nửa đầu của thế kỷ 20. Trong “Mưa Xuân” có bức tranh làng quê ngày xuân, có hội làng, có nỗi lòng của một thôn nữ ở tuổi cập kê. “Mưa Xuân” như một câu chuyện được thi sĩ kể bằng thơ. Đó là một câu chuyện về tình yêu, về nỗi nhớ mong, tương tư của một cô gái trẻ nơi thôn quê thuần khiết. Câu chuyện chưa kết thúc, cứ khiến người đọc vừa hy vọng, lại vừa man mác buồn


Phân tích Mưa Xuân của Nguyễn Bính - Mẫu 3

Nguyễn Bính được xem là một trong những nhà thơ xuất sắc của làng quê Việt Nam. Thơ của ông mang bản chất trữ tình hồn hậu, chân chất như chính tính cách của những người nông dân hiền lành chất phác. Bài thơ “Mưa xuân” nằm trong tập Lỡ bước sang sang (1940) đã cho chúng ta thấy được phong cách nghệ thuật đặc trưng này của nhà thơ.

Mưa xuân là bài thơ mượn câu chuyện tình cảm của một cô gái bên khung cửi khi nhớ đến người yêu. Những tiếng lòng tha thiết khi cô gái nhớ mong người yêu được gửi gắm rất tha thiết

“Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già,

Lòng trẻ còn như cày lụa trắng,

Mẹ già chưa bán chợ làng xa…”

Cô gái trong bài thơ đã kể về chính mình là một cô gái dệt lụa suốt ngày quanh quẩn bên khung cửi và mẹ già. Tấm lòng ví như tấm lụa trắng mà chưa được bán vào tay ai cả. Thế nhưng sự đời đâu có bình yên trôi qua như vậy cho đến một ngày:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”

Hai câu thơ tả cảnh rất hay và rất tình. Mưa xuân thường mang đến cảm giác rất nhẹ nhàng, êm ái như gieo vào lòng người những xuyến xao. Mùa xuân đến với hoa xoan rụng từng lớp, từng lớp vẽ nên một bức tranh quê thật tuyệt vời. Và để tăng thêm cái ấm áp đó có thêm một sự kiện bất ngờ đó là:

“Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”…

Nếu hình ảnh hoa xoan làm cho câu thơ mang nét thi vị, thì sự xuất hiện của “hội chèo làng Đặng” lại làm cho bài thơ mang đậm chất quê, không lẫn vào đâu được. Trên thực tế, hội chèo mỗi năm chỉ diễn ra một lần duy nhất vào mùa xuân ở các làng, nhất là các vùng quê chèo như Thái Bình, Nam Định. Trong cái đêm hội chèo định mệnh ấy, “em” đã gặp anh. Và cuộc gặp gỡ ấy chỉ được diễn tả thoáng qua, thoáng qua đến mức làm cho người đọc dễ dàng bỏ qua sự kiện.

“Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em dừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Cỏ lẽ là em nghĩ đến anh…”

Vâng sự kiện hội chèo đã gieo rắc vào lòng em nụ hồng tình đầu chớm nở. Mối tình đầu xao xuyến ấy đã làm cho “hai má em bừng đỏ” khi em “nghĩ đến anh”. Mạch thơ vẫn tiếp tục với sự kể lể của nhân vật trữ tình như là để trình bày nguyên cớ, hay là để bộc lộ rõ sự vận động trong nội tâm nhân vật.

“Mình em lầm lụi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê,

Áo em che đầu mưa nặng hạt.

Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.”

Từ tâm trạng bối rối thương yêu đã trở nên buồn tủi hơn với nỗi nhớ của riêng mình. Lúc này chỉ còn mình cô giá trên đường về. Mưa xuân đã chuyển nặng hạt hơn không còn mang cho người ta cảm giác tươi mát như ban đầu. Mà ngược lại, mưa làm còn làm cho người con gái thêm buồn tủi trong đêm lạnh. Khoảng cách giữa nhân vật “em” và “anh” lúc này không còn là một “thôi đê” nữa mà là “một dải đê” xa tít tắt.

“Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay.

Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ,

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”…

Cũng là bữa ấy có mưa xuân, có hoa xoan, có hội chèo làng Đặng. Nhưng lúc này cảnh vật đã có sự đối lập rõ rệt. Đó là “mưa xuân đã ngại bay”, “hoa xoan đã nát”, lần này là hội chèo làng Đặng đi qua. Nghe lời người mẹ nói thì mùa xuân đã cạn ngày như chính tình yêu của cô gái vậy. Chữ “cạn” cũng được xem vừa là sự kết thúc, nhưng đồng thời nó cũng là sự mở đầu

“Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Từ một cuộc hẹn không thành mà mối duyên lành vĩnh viễn trôi. Nỗi đau khổ đầu đời như một vết cứa vào tâm hồn người con gái. Những tưởng như nỗi đau đó làm mùa xuân đã cạn ngày và tình yêu cũng chết trong em. Nhưng không đến khổ thơ cuối là sự bùng cháy mãnh liệt ngọn lửa khao khát yêu thương trong em.

“Bao giờ em mới gặp anh đây

Bao giờ hội Đăng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay?”

Bài thơ “Mưa xuân” không chỉ đơn thuần là một bức tranh tả cảnh quê. Mà nó còn là nỗi lòng của những người đang yêu là các chàng trai, cô gái chốn thôn quê, của chính tâm hồn thi sĩ.


Phân tích Mưa Xuân của Nguyễn Bính - Mẫu 4

Nguyễn Bính là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam, Ông được coi là nhà thơ của làng quê Việt Nam bởi những sáng tác của ông mang sắc thái dân giã, mộc mạc. Tôi thường nhớ tới Nguyễn Bính mỗi độ xuân về, nhất là lúc mưa xuân.

Những cơn mưa phùn như rắc bụi trên cỏ cây hoa lá, những cánh hoa bưởi rụng rơi bên thềm nhà… tất cả đều làm tôi nhớ đến Ông, nhớ đến những sáng tác vô cùng thân quen và mộc mạc, gần gũi với khung cảnh quê hương yên bình. Trong số các sáng tác của Nguyễn Bính, tôi thích nhất là bài thơ “Mưa xuân” nằm trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” năm 1940.

“Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già

Lòng trẻ còn như cây lụa trắng

Mẹ già chưa bán chợ làng xa”

Mở đầu bài thơ là hình ảnh của một cô gái sống bằng nghề dệt lụa cùng với mẹ già, tấm lòng trong sáng thuần khiết được ví như cây lụa trắng đã cho ta thấy đây là một cô gái có lòng lương thiện, luôn nghe lời mẹ. Nhà thơ đã sử dụng lối viết tự sự chân thật và gần gũi để giới thiệu về cuộc sống hàng ngày của cô gái làm cho người đọc hiểu hơn về nhân vật trong chuyện.

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”

Hình ảnh mưa xuân hiện lên thật đẹp chẳng trách Nguyễn Bính đã lấy hình ảnh này để đặt tên cho bài thơ. Các hình ảnh như: mưa xuân, hoa xoan, hội chèo đều là những hình ảnh quen thuộc của mùa xuân và có lẽ đây chính là cơ hội để cô gái có thể gặp chàng trai trong lòng của mình.

Tôi nhớ trong bài thơ Tương Tư, tác giả cũng đã sử dụng hình ảnh thôn Đoài trong câu thơ: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông – một người chín nhớ mười thương một người”. Hình ảnh thôn quê hiện lên thật gần gũi tượng trưng cho tình cảm lứa đôi thật đẹp, đây chính là điểm đặc sắc trong thơ của Nguyễn Bính mà chúng ta không thể tìm thấy ở các nhà thơ khác.

Những câu thơ tiếp theo từ “em ngừng thoi lại giữa tay xinh… cho đến thế nào anh ấy chả sang xem” đã diễn tả tâm trạng bồi hồi có chút e thẹn của cô gái khi nghĩ đến chàng. Nguyễn Bính đã sử dụng lối viết tự sự kết hợp với miêu tả đem đến cho người đọc cảm giác rất chân thật, rất gần gũi, dù không có mặt ở đó nhưng người đọc vẫn có thể hình dung ra mọi hành động của cô gái.

“Em xin phép mẹ vội vàng đi

Mẹ bảo em về kể mẹ nghe

Mưa bụi nên em không ướt áo

Thôn Đoài cách có một thôi đê”

Nguyễn Bính đã thực sự hóa thân vào nhân vật, kể lại từng chi tiết cũng như diễn biến tâm trạng của cô gái giúp cho người đọc cảm thấy rất chân thực. Từ “vội vàng” đã cho thấy tâm trạng háo hức của cô gái chỉ muốn mau chóng đến hội hàng để có thể gặp được chàng, trái tim và lý trí của cô đều hướng đến chàng.

“Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

Em mải tìm anh chả thiết xem

Chắc hẳn đêm nay dường cửi lạnh

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em”

Những câu thơ vô cùng mộc mạc và giản dị, những câu nói rất đỗi đời thường, rất đỗi gần gũi với lối sống thôn quê bình dị đã được Nguyễn Bính sử dụng trong đoạn thơ trên. Cô gái lặn lội sang thôn Đoài nhưng không hề có ý xem hội mà tâm trí của cô chỉ hướng đến người thương trong lòng, cô mải miết đi tìm anh trong vô thức.

Biện pháp nhân hóa được sử dụng khéo léo trong hai câu cuối chứng tỏ mọi khi cô luôn gắn bó với khung cửi và thoi ngà nhưng hôm nay cô đã bỏ mặc tất cả để đi tìm chàng, đi tìm hạnh phúc của đời mình.
Sự chờ đợi trong vô vọng của cô gái đã dập tắt niềm hi vọng của cô, tâm trạng chuyển từ hồi hộp nhớ mong đến trách móc:

“Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”

Những lời trách móc của cô gái rất chân thực, mang nỗi niềm của người con gái khi yêu mong muốn được gặp chàng để thỏa nỗi nhớ mong nhưng chàng lại không đến.

“Mình em lầm lũi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê!

Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya”

Chờ hoài mà chàng không đến, cô gái “lầm lũi” đi về trong màn đêm đầy sương gió mang theo bao nhiêu tâm sự với tủi hờn. Tôi rất khâm phục Nguyễn Bính trong việc miêu tả diễn biến tâm lí của cô gái, có lẽ đây chính là yếu tố tạo nên sự thành công và tên tuổi của nhà thơ.

Tâm trạng của cô gái trước khi đi xem hội là rất vui, rất háo hức vì tin rằng sẽ gặp được chàng, đường dù xa nhưng cô vẫn thấy rất gần điều này thể hiện rất rõ trong câu: “Thôn Đoài cách có một thôi đê”. Bởi vì cô háo hức muốn đi gặp chàng nên dù đường xa hay mưa gió cũng chẳng màng, đường dù xa nhưng cô vẫn thấy rất gần.

Nhưng đến khi không gặp được chàng trai, suy nghĩ của cô gái đã thay đổi hẳn: “Có ngắn gì đâu một dải đê”. Một mình cô trở về trong sự nhớ nhung, tủi hờn, con đường về nhà trở nên dài hơn bao giờ hết.

Mùa xuân đang dần qua đi, những cơn mưa xuân đã ngại bay, những cánh hoa xoan đã bị nát dưới giày, hội làng cũng sắp hết, không biết đến bao giờ cô mới gặp được chàng trai, không biết đến khi nào mùa xuân kia lại tươi thắm trở lại.

Bài thơ “Mưa xuân” giống như một câu chuyện đã được Nguyễn Bính kể lại bằng chất thơ mộc mạc và giản dị của mình. Câu chuyện về người con gái thôn quê ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, tiếc thương cho cô gái vì mùa xuân đã nhỡ nhàng nhưng cũng cảm phục vì tình yêu mãnh liệt của cô.

Bằng cách sử dụng các hình ảnh đối lập, vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ kết hợp với lối văn tự sự đi vào lòng người, bài thơ “Mưa xuân” của Nguyễn Bính đã để mang đến thật nhiều cảm xúc cho người đọc về tình yêu đôi lứa.


Phân tích Mưa Xuân của Nguyễn Bính - Mẫu 5

Mưa xuân Nguyễn Bính là một bài thơ hay và đầy ấn tượng bởi nó đã vẽ nên bức tranh của một làng quên yên ả thanh bình. Ở đây có hình ảnh hội làng, có nỗi lòng của người con gái đã đến tuổi cập kê. Một câu chuyện tình yêu đẹp để lại bao vương vẫn nhưng rồi lại đầy nuối tiếc.

Đây là một đề tài viết về mùa xuân như bao đề tài khác. Tuy nhiên chúng ta sẽ cảm nhận được một điều khác biệt ở trong bài thơ Mưa xuân của Nguyễn .Mưa xuân Nguyễn Bính là câu chuyện về mùa xuân tuy nhiên mở đầu bài thơ lại không phải là khung cảnh thiên nhiên mà chính là hình ảnh của con người. Đó là một cô thiếu nữ làm nghề dệt lụa. Các cô gái đẹp thường được khắc họa trong các bài thơ. Và cô gái trong Mưa xuân cũng vậy, đó là một cô gái đẹp với tấm lòng trong sáng. Sở dĩ biết được điều này bởi cô được tác giả so sánh như một vuông lụa trắng vẫn chưa được mẹ bán chợ làng xa. Tức là đến tuổi nhưng vẫn chưa có chồng.

Tuy có vẻ tượng hình nhưng cũng đầy tinh tế. Cô chính là một mẫu người thôn quê trong trắng và thuần khiết. Với vẻ đẹp đó làm con người ta không khỏi liên tưởng tới Thôn Đoài ngồi nhớ Thôn Đông.

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp lớp rụng rơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ

Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay.”

Sau khi tả người tác giả mới dẫn con người ta vào khung cảnh thiên nhiên. Đó là mưa xuân vào một buổi chiều. Và khi đó cảnh nhà đơn chiếc chỉ có hai mẹ co bỗng nhiên vui tươi thêm. Có được điều này bởi đoạn “mưa xuân phơi phới”. Đó cũng có thể không phải mưa xuân phơi phới mà chính là lòng em đang phơi phới xuân thì. Chính cái xuân của con người làm cảnh sắc xung quanh cũng thêm xuân.

“Bữa ấy mưa xuân phơi phơi bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay”

Rồi hội chèo làng Đặng đi qua ngõ làm cho khung cảnh thiên nhiên vốn yên bình nay bị phá vỡ. Chính điều này đã làm cho thiếu nữ đang ngồi dệt vải bên khung cửi lại thêm mong ngóng phấn khởi. Sự phấn khởi ấy cũng chính là cảm giác bối rối e lệ của cô gái mới biết yêu lần đầu. Có phải cô ngừng thoi lại là bởi lòng đã giăng tơ một mối tình. Bởi chí có như vậy cô mới đỏ mặt. Và với những người yêu thơ, trong Mưa xuân, có thể cô gái đổ mặt bởi :Có lẽ là em nghĩ tới anh”

Câu chuyện mưa xuân được viết lên thêm với sự chờ đợi của cô thiếu nữ. Bao giờ cũng thế khi mới biết yêu con người ta cũng sẽ thêm phần lãng mạn hơn. Đó là khi cô ra trước hiên nhà để đón nhận những hạt mưa nhẹ nhàng rơi xuống.Có điều cô không thực sự để tâm xem trời có mưa hay không bởi trong lòng đã giăng đầy tơ. Đó là một hình ảnh rất đẹp đối với thơ ca. Dẫu lạnh giá nhưng cô gái không cảm thấy mưa lạnh bởi trong lòng chỉ nghĩ thế nào anh ấy chẳng sang xem.

“Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

Em ngửa bàn tay trước mái hiên

Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh

Thế nào anh ấy chả sang xem!”

Chính vì lòng người có tình yêu nên những câu thơ được viết lên cũng có hồn hơn. Bởi trong lòng nghĩ tới anh ấy nên cũng không ngại dẫu trời đang mưa. Từ vội vàng cũng xuất hiện thật đúng lúc cũng như đúng với diễn biến tâm trạng của người thiếu nữ. Nó giống như cô gái đang vội vàng đến thôn Đoài để nghe hát nhưng thực chất cũng chẳng phải nghe hát đâu. Mà bởi vì em muốn gặp anh. Vì vậy có thể nói lòng phơi phới không phải vì mưa xuân mà là lòng đang xuân. Cô gái đi xem hát chèo, họ hát thâu đêm chắc là vui lắm những cô nàng lại không quan tâm. Bởi khi này mới biết yêu nên cô nghĩ tới chỉ có anh. Tuy nhiên anh đã không đến. Cảm xúc khi ấy mới buồn làm sao. Bởi khi con người ta mong mỏi nhiều cũng chính là lúc con người ta dễ thất vọng nhất. Những câu thơ này diễn tả được cảm xúc khi ấy của cô nàng rất thật mà cũng rất nhẹ nhàng.

Họ đã gặp nhau ở đám hát bên làng hôm nọ và anh chàng đã hẹn năm tao bảy tiết hò hẹn và cô gái đã tin tưởng. Nhưng hôm nay cũng chỉ thấy mùa xuân thật bẽ bàng. Rõ ràng đã hẹn hò rồi nhưng lại không đến làm cho cô nàng thêm bơ vơ, buồn bã. Bởi không gặp được người mình mong muốn nên mới cảm giác mùa xuân kia cũng thật bẽ bàng. Và cô nàng tội nghiệp ra về.

“Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng Ðặng về ngang ngõ

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ chèo Ðặng đi ngang ngõ

Ðể mẹ em rằng hát tối nay?’

Đám hát vẫn chưa tan nhưng đêm đã tàn. Rõ ràng ban đầu với tâm trạng phơi phới là thế nhưng cuối cùng lại chỉ còn sự bẽ bàng. Khi đó mưa xuân cũng đã biết buồn theo em. Mưa xuân giờ cũng ngại bay, hoa xoan thì giờ đã nát dưới thân dày.

Nó cũng giống như sự trông mong khắc khoải của cô nàng đã bị vỡ vụn theo chiều mưa hôm ấy. Tuy cô gái tủi nhưng cũng không mất hết hy vọng bởi lẽ cô vẫn nghĩ đó chỉ là chưa gặp mà thôi. Và chắc sẽ gặp lại dấu chưa biết bao giờ. Đó là một chút niềm tin còn sót lại báo víu vào.


Phân tích Mưa Xuân của Nguyễn Bính - Mẫu 6

Nguyễn Bính là nhà thơ được đông đảo độc giả công nhận như một trong các nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại. Nhắc tới ông, có người nhận xét: “Nguyễn Bính là làn mưa xuân rắc mình lên chốn hương thôn, là lá dâu xanh dập dờn bướm vàng cuối bãi. Nguyễn Bính là chiếc lá lìa cành đầu ngõ, là chiếc mo cau rụng vội góc vườn. Nguyễn Bính là sắc nắng chiều man mác trên mỗi thân cau, là ngọn mồng tơi ngập ngừng nơi lưng giậu…”. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Bính phải kể đến bài thơ “ Mưa xuân”- một bức tranh làng quê thấm đượm nỗi lòng cô thôn nữ. Tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả.

“Em là con gái trong khung cửi 

Dệt lụa quanh năm với mẹ già 

Lòng trẻ còn như cây lụa trắng 

Mẹ già chưa bán chợ làng xa 

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay 

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy 

Hội chèo làng Ðặng đi ngang ngõ 

Mẹ bảo: “Thôn Ðoài hát tối nay”.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh của một cô gái thôn quê bên chiếc khung cửi nhỏ. Cô gái hiện lên với công việc dệt lụa quanh năm, ngày ngày gắn liền với chiếc khung cửi tảo tần. Đây là một hình ảnh rất đẹp, thể hiện sự chăm chỉ chịu thương chịu khó của những cô gái làng quê nói riêng và những người nông dân nghèo nói chung. Họ tần tảo sớm hôm tận tụy với công việc của mình, không mảy may toan tính với người, với đời. Cô gái như một điểm nhấn trong bức tranh đẹp dịu dàng, được nhà thơ cẩn trọng tô vẽ bằng vần thơ. Ta thấy tấm lòng của người con gái ấy còn ngây thơ trong trắng như tấm lụa trắng trong, chưa vương chút bụi đời. Bên cạnh cô là chân dung của người mẹ già khuya sớm chạy chợ tảo tần. Họ sống nương tựa vào nhau, chở che cho nhau qua những tháng ngày dài.

Người mẹ “chưa bán chợ làng xa” có nghĩa là cô vẫn còn độc thân, chưa được gả bán cho ai cả. Cô gái chính là đại diện cho vẻ đẹp thập toàn thập mỹ, đầy đủ công dung ngôn hạnh của một người con gái thôn quê thật thà. Nguyễn Bính đã dành rất nhiều sự ưu ái cho nhân vật cô gái, ông ví von cô giống như một “vuông lụa trắng” thuần khiết và sang trong hơn ngọc.

Tiếp đến, nhà thơ nói về khung cảnh đất trời trong tiết xuân mưa bay. Dường như không gian mờ mờ ảo ảo bởi làn mưa nhẹ bay, lan toả khắp không gian như màn sương khói mỏng manh nhẹ nhàng. Những cánh hoa xoan tím ngắt rụng rơi đầy dưới gốc cây, lớp lớp chồng lên nhau như một sự cựa quậy lột xác. Tối đó bên thôn Đoài có hội chèo thi hát- một sự khuấy động cả về không gian, thời gian và con người. Có lẽ tiếng trống chèo rộn rã đang phá vỡ cái tĩnh lặng yên ắng của cuộc sống hai mẹ con cô gái. Cô gái háo hức, phơi phới mong chờ đến giây phút đi xem hội hát chèo.

“Lòng thấy giăng tơ một mối tình 

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh 

Hình như hai má em bừng đỏ 

Có lẽ là em nghĩ đến anh 

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn 

Em ngửa bàn tay trước mái hiên 

Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh 

Thế nào anh ấy chả sang xem!”

Cô gái thấy lòng mình khấp khởi, mong ngóng lạ thường. Đó chính là do cô đang tương tư một mối tình, một chàng trai trong lòng. Phải chăng mưa xuân bay bay làm lòng cô phơi phới? hay tiếng trống chèo thúc giục khiến tim cô rộn rã nhanh hơn? Hay tiếng gọi tình yêu đang thôi thúc một trái tim lần đầu rung động bởi tình yêu đôi lứa? Tất cả hoà quyện lại thành một tâm trạng rất bâng khuâng, rất khấp khởi nhưng cũng rất e lệ ngại ngùng. Đôi bàn tay xinh xắn đã ngừng lại bên khung cửi, nghĩ về chàng trai khiến hai má cô gái “bừng đỏ” hết sức dễ thương và chân thật. Câu thơ cuối của khổ thơ đã trực tiếp đưa ra câu trả lời cho tất cả những gì đang diễn ra: “Có lẽ là em nghĩ tới anh”. Vâng, một câu trả lời hết sức ngắn gọn, chân thành và thẳng thắn. Cô gái đối diện với lòng mình, không một chút giấu giếm hay lấp lửng.

Khi người ta đang yêu, đang mong đợi thì thời gian có lẽ là chiếc thước đo hơi dài cho nỗi nhớ. Cô gái mong đợi giây phút được gặp người trong mộng, mong sao cho trời nhanh tối để tìm đến với người thương của mình. Khi nhà nhà đã lên đèn, cô ra trước mái hiên nhà để đưa tay đón những hạt mưa xuân nhẹ nhàng. Những hạt mưa cũng giống như nỗi niềm trong lòng cô, nhẹ nhàng, phơi phới. Phải chăng khi trái tim biết rung động thì con người ta thường yêu đời, yêu mưa, yêu sự lãng mạn lung linh nhiều hơn? Dù cho những giọt mưa bay bay rơi làm tay cô gái ướt lạnh thì trái tim cô gái vẫn thấy ấm áp vô cùng khi nghĩ: “ Thế nào anh ấy chẳng sang xem”. Cô đoán chắc rằng người cô thương sẽ đến và cô sẽ được gặp anh, sự mong mỏi đó thật sự rất đáng yêu.

“Em xin phép mẹ, vội vàng đi 

Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe 

Mưa bụi nên em không ướt áo 

Thôn Ðoài cách có một thôi đê 

Thôn Ðoài vào đám hát thâu đêm 

Em mải tìm anh chả thiết xem 

Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh 

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em"

Cuối cùng thì thời khắc cô mong ngóng cũng đã đến, cô gái xin phép mẹ để đi sang thôn Đoài. Thái độ “vội vàng” khẩn trương như một minh chứng chứng minh cho tâm trạng vội vã của những trái tim đang yêu. Nhịp thơ trở nên nhanh hơn, dồn dập hơn theo bước chân của cô gái. Trái tim lúc này là tấm bản đồ dẫn đường nhanh nhất, chuẩn xác nhất đưa cô chạm đến với yêu thương và nhung nhớ. Câu chuyện vẫn là một bản tình ca dài khi cô đến nhưng không tìm thấy hình bóng người thương đâu cả. Cô gái cứ mải miết đưa ánh mắt kiếm tìm hình bóng chàng trai, “chẳng thiết xem” những điệu hát câu hò nữa. Chưa biết có tìm thấy người cô thương hay không, nhưng có một điều chắc chắn rằng đêm nay khung cửi sẽ trở nên lạnh giá, thoi ngà đơn độc nhớ ngón tay nhỏ xinh của cô rất nhiều. Vật nhớ em, em nhớ anh, còn anh đang ở nơi nào?

“Chờ mãi anh sang anh chả sang 

Thế mà hôm nọ hát bên làng 

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn 

Ðể cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng! 

Mình em lầm lụi trên đường về 

Có ngắn gì đâu một dải đê! 

Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt 

Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya”

Vậy là cuối cùng thì chàng trai cũng không tới, cô gái không thể gặp được người cô thương. Suốt cả một ngày dài mong ngóng trông chờ, để đến lúc này cô mang trong lòng sự thất vọng khi không thấy hình bóng người yêu đâu cả. Trước đó, họ đã từng gặp nhau và chàng trai hẹn hò ước nguyện. Cô gái tin vào lời hứa đó, xem như lời hẹn ước cho tới buổi gặp hôm nay. Vậy nhưng người lại không đến, khiến lòng cô “bẽ bàng” buồn tủi. Cô trở về lầm lũi một mình trên con đường quen thuộc mà lòng vẫn chưa nguôi nỗi buồn. Con đường lúc đi là sự khấp khởi mừng vui, khi trở về lại não nề và dài vô tận. Lúc đi mưa bay bay không khiến em ướt áo, lúc cô gái về mưa lại nặng hạt nhiều hơn. Mưa thương cô hay cô thương chính bản thân mình nhiều hơn? Tâm trạng của người con gái lạnh buốt như trời đêm, não nề như những hạt mưa xuân tí tách lăn dài.

“Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay 

Hoa xoan đã nát dưới chân giày 

Hội chèo làng Ðặng về ngang ngõ 

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”

Khi cô gái mang tâm trạng buồn bã thì những hạt mưa xuân lúc này cũng chẳng buồn bay nữa. Cánh hoa xoan tím ngắt cũng héo úa tàn phai, “nát dưới chân giày” như nỗi long buồn đau của cô gái vậy. Hội đã tan, mùa Xuân cũng cạn ngày rồi, nghĩa là cô đâu còn cơ hội để tìm gặp lại người cô thương nữa. Bao mong ngóng trông chờ bây giờ cũng giống như những hạt mưa chảy dài biến mất. Cô tự nhủ với lòng mình hay cũng chính là những tâm tư muốn gửi gắm cho chàng trai:

“Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày 

Bao giờ em mới gặp anh đây? 

Bao giờ chèo Ðặng đi ngang ngõ 

Ðể mẹ em rằng hát tối nay?”

Cô buồn bã khi ngày xuân đã qua sắp hết, cô không được thấy hình bóng người con trai trong lòng mình. Nhưng với tâm hồn trắng trong, sự thơ ngây của trái tim vuông lụa trắng ấy, cô vẫn mang hy vọng vào mùa xuân tới, cô lại có cơ hội được gặp anh. Thế nhưng cô không chắc chắn rằng đến khi nào thì sẽ được gặp lại, và nếu không còn duyên gặp lại thì cô sẽ ra sao? Điệp ngữ “bao giờ” được lặp lại như một sự ngóng trông vô vọng, sự tiếc nuối và mong đợi vào chữ duyên đôi lứa.

Tóm lại, bằng một hồn thơ chân chất bình dị, Nguyễn Bính đã khắc hoạ một bức tranh quê hương đầy màu sắc và tình cảm. Cô gái với tấm lòng trắng trong là đại diện cho tình yêu thuần khiết, mong chờ. “Mưa xuân” như một cơn gió mang theo những hạt mưa, trĩu nặng một nỗi buồn khó tả cứ khắc khoải mãi trong lòng độc giả.

Phân tích Mưa Xuân của Nguyễn Bính - Mẫu 7 

Mưa xuân (trong tập Lỡ bước sang ngang-1940) được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất, đẹp nhất, tình nhất và chân quê nhất. Nếu đứng ngoài mà nhận định thì mưa xuân vô tình trở thành kẻ ngăn cách hai không gian: khung cửi và cuộc đời. Nhưng nếu ta đặt mình vào vị trí của em (một nhân vật trữ tình) thì mạch thơ tự sự của bài thơ bắt đầu ngay từ những lời thơ đầu tiên:

“Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già,

Lòng trẻ còn như cày lụa trắng,

Mẹ già chưa bán chợ làng xa…’

Lời giãi bày của nhân vật “em” muốn nói rằng: cuộc sống của “em” đang rất yên bình, thơ mộng, hay muốn giải thích cho hàng loạt sự biến đổi sau này? Khung cửi bản thân nó đã là sự biểu hiện cho cuộc sống ấm êm của làng quê. “Trong khung cửi” không chỉ là thế giới của riêng “em”, mà nó còn là thế giới con gái, thế giới bình yên của người con gái thôn quê. Trong cái thế giới bình yên đó, “em” vẫn vẹn nguyên một sự tinh khôi, tinh khiết như “cây lụa trắng”.

Nhưng cuộc đời sẽ cứ bình lặng trôi đi vô sự, cứ như hết ngày lại đêm, hết mưa rồi nắng, nếu không có một ngày, “hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ”. Và như vậy, sự giải thích ban đầu kia của “em” ‘sẽ chỉ cho người đọc nhận thấy sự biến đổi lớn lao trong cuộc đời “em”. Từ “bữa ấy”, khi “mưa xuân phơi phới bay, hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”, “em” đã bước sang một thế giới khác.

Không còn là trong khung cửi nữa, em “đã bước ra ngoài trời, giữa cuộc đời theo tiếng gọi của mưa xuân”. Mưa xuân đến không chỉ giăng tơ cho trời đất mà giăng tơ vào hồn người. Nó gieo vào lòng “em” luyến ái đầu tiên hay hạt mầm vốn phong kín trong lớp vỏ êm đềm của thời thơ trẻ, gặp mưa xuân bỗng xốn xang tách vỏ.

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”

Hai câu thơ rất hay, rất đẹp và rất tình. Mưa xuân thường đến rất nhẹ nhàng, êm ái như gieo vào lòng người những xuyến xao. Mưa xuân đến, hoa xoan rụng từng lớp, từng lớp vẽ nên một bức tranh quê trong tiết trời ấm áp của mùa xuân. Rồi như để tăng thêm cái ấm áp đó sự kiện đến với em cũng như những chàng trai, cô gái khác của làng em:

“Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”…

Nếu hoa xoan làm cho câu thơ mang đậm hình ảnh quê, thì sự xuất hiện của “hội chèo làng Đặng” lại làm cho bài thơ mang đậm chất quê, không lẫn vào đâu được. Hai câu thơ rất thực mà cũng rất mộng. Hội chèo mỗi năm chỉ diễn ra một lần duy nhất vào mùa xuân ở các làng, nhất là quê chèo Thái Bình, Nam Định. Ấy là cái thực. Hội chèo đã kéo người gái quê ra khỏi khung cửi đến vói hẹn hò.

Song cái đêm chèo ở làng Đặng ấy dẫu thật bao nhiêu lại cũng như là sự tái hiện qua hồi ức. Ấy là cái mộng chăng? Trong cái đêm hội chèo ấy, “em” đã gặp anh, đâu có cuộc hò hẹn đầu tiên khi “em” bước ra khỏi khung cửi. Và cuộc gặp gỡ ấy chỉ được diễn tả thoáng qua, thoáng qua đến mức làm cho người đọc dễ dàng bỏ qua dẫu đó là hai câu thơ rực rỡ nhất.

Bốn khổ thơ tiếp theo là một sự kể lể dàn trải. Nhưng cái sự kê lể đó của cô gái lại khắc họa nên một thế giới thực, hiện hữu tuyệt đối.

“Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em dừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Cỏ lẽ là em nghĩ đến anh…”

Bước ra cuộc đời rộng lớn từ “bữa ấy”, mưa xuân đã gieo rắc vào lòng em nụ hồng tình đầu chớm nở. Mối tình đầu e ấp và xao xuyến ấy đã làm cho “hai má em bừng đỏ” khi em “nghĩ đến anh”. Tình yêu đầu bao giờ cũng vậy. Rất ngọt, rất đậm, rất nhẹ và cũng rất đắng cay. Điều này sẽ được minh chứng thêm trong những khổ thơ sau.

Mạch thơ vẫn tiếp tục với sự kể lể của nhân vật trữ tình như là để trình bày nguyên cớ, hay là để bộc lộ rõ sự vận động trong nội tâm nhân vật, sống với nhân vật. Đó là biệt tài của Nguyễn Bính. Chẳng thế mà người ta đã gọi ông là “thi sĩ của thương yêu” hay sao? “Luồng sinh khí” mới mà Nguyễn Bính thổi vào thơ ca Việt Nam 1930-1945 đã tưới mát tâm hồn bao thế hệ bạn đọc. “Mưa xuân” không là ngoại lệ.

Thế giới thơ Nguyễn Bính luôn đưa ta chao đảo giữa hai bờ hư ảo – hiện thực. Vậy nên dẫu cho mưa xuân phơi phới bay và hội chèo làng Đặng về biểu diễn là thực, thì cái việc “em ngửa bàn tay trước mái hiên” để định đoán “thế nào anh ấy cũng sang chơi” lại cũng chỉ là trong ảo tưởng, trong tưởng tượng của em. Và như vậy bài thơ trở nên hư ảo và lung linh hơn. Bởi tất cả những điều ấy đều là hoài niệm.

Một hoài niệm xa xôi và mờ ảo. Và phải chăng trong sự hoài niệm ấy, nỗi nhớ như được chất đầy? Chẳng phải trong tình yêu khoảng cách được đo bằng nỗi nhớ đấy thôi? “Tình non” vừa đơm chồi hé lộc và “em” đã đón nó vội vã như bao cô thôn nữ khác. Có xa cách gì đâu. Khoảng cách giữa “em” và “anh” chỉ là ”một thôi đê”, và vì thế “em xin phép mẹ vội vàng đi”.

Cuộc hẹn giữa “anh” với “em” từ “bữa ấy” làm lòng “em” xốn xang, bồi hồi. Nguyễn Bính thật tài tình khi miêu tả sự vận động tâm hồn con người. Nhất là người con gái khi yêu. Không “dữ dội và dịu êm” như Xuân Quỳnh, không nồng nàn bỏng khát như Xuân Diệu, không rạo rực bâng khuâng như Lưu Trọng Lư. Tình yêu của Nguyễn Bính thật nhẹ, thật êm cũng như thật da diết, mạnh mẽ và kín đáo. Nó kín đáo như mưa xuân vậy. Mưa xuân đến báo hiệu một sức sống mới đang đâm chồi, báo hiệu một sự hồi sinh mạnh mẽ.

Về câu thơ “Mưa bụi nên em không ướt áo” có bản in là ” mưa nhỏ nên em không ướt áo”. Nếu quan sát kĩ thì việc sử dụng hình ảnh “mua nhỏ” ở câu thứ hai không hợp lý chút nào. Mưa xuân thường là mưa bụi bay. Những hạt mưa như những hạt sương rắc phấn lên vạn vật. Và đó cũng thể hiện được sự tinh tế cua nhà thơ khi nhận ra sự biến đổi trong cuộc đời cô gái.

Như trên đã nói, bài thơ có sự rành mạch rõ ràng của hai thế giới, trong khung cửi và cuộc đời. Mạch thơ tự sự bắt đầu chuyển sang một hướng khác. Bài thơ như bị gãy gập thành hai khúc đối lập. Ban đầu là sự trách móc vu vơ. Trách móc chàng trai không đến như lời hẹn ước. Có người cho rằng, tiếp theo một câu thơ quê mùa bậc nhất (“Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn”) là một câu thơ hiện đại bậc nhất (“Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”). Trong “thế giới con gái”, cuộc sống của em” vốn ấm êm là vậy, “em” bước ra mùa xuân và “dệt cho mình tâm tình đầu”. Nhưng người con gái,”chưa nếm ngọt ngào đã ngậm đắng cay. Nếu ở trên là một cảm giác ấm êm với bản sắc văn hoá đặc trưng của làng quê, thì bây giờ là sự lạnh lẽo, cô đơn, buồn tủi, tối tăm:

“Mình em lầm lụi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê,

Áo em che đầu mưa nặng hạt.

Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.”

Mua xuân như nặng hạt hơn. Cũng không còn mang cho người ta cảm giác ấm êm tươi mát như nó vốn vậy. Mà ngược lại, mưa làm cho cõi lòng em thêm buồn tủi, đơn lạnh. Tình yêu vốn rất đẹp, rất nên thơ, rất ngọt ngào. Chẳng phải “chàng thi sĩ của thơ tình ” đã phải thốt lên rằng “làm sao sống được mà không yêu”, dù cho “yêu là chết ở trong lòng một ít” đó sao?

Nhưng tình yêu cũng có muôn vàn ngang trái. Nụ hoa mới hé đã bị bẻ gãy, ngọn lửa mới nhen đã bị vùi dập. Nỗi đau khổ đầu đời mà em nếm trải không gì khác hơn là sự bội bạc của tình yêu. Chẳng phải như vậy sao? Nguyễn Bính thường hoá thân mình vào trong từng nhân vật (cô lái đò, cô hái mơ, anh khoá …). Phải chăng hình ảnh cô độc trong đêm khuya lạnh lẽo kia đã mang một phần tâm trạng của thi nhân? Vì thế mà đã có người gọi ông là “người lữ hành cô độc”.

Khoảng cách giữa “em” và “anh” không còn là một “thôi đê” nữa mà là “một dải đê”, là “vời vợi xuân qua”. Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê, là nhà thơ của tình quê, hồn quê. Vì vậy mà trong bất kì bài thơ nào của ông hình ảnh làng quê luôn hiện hữu. Con đê ngăn cách giữa hai người yêu nhiều như cô đơn hơn, dài vô tận. Nếu chưa từng nếm trải cái cảm giác ấy, liệu thi sĩ có thể viết được những vần thơ hay đến vậy?

Nếu cái lạnh ở trên (chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh) là cái lạnh của những con thoi, của khung cửi khi em không dệt lụa để đi xem hát, cái lạnh của đất trời. Thì đến đây (lạnh lùng thêm tủi với canh khuya) là cái lạnh của lòng người. Cái lạnh từ thiên nhiên đã thấu suốt tận lòng người con gái đang yêu. Cái lạnh lẽo trong tâm hồn làm cho mưa xuân không còn ấm áp nữa.

“Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay.

Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ,

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”

Cấu trúc bài thơ cũng thật cân xứng hợp lí. Cũng là bữa ấy có mùa xuân, có hoa xoan, có hội chèo làng Đặng. Nhưng lại có sự đối lập rõ rệt:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hon xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ,

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát nay”…

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày

Sự cân xứng và đối lập ấy càng làm nổi rõ được cái tình trong bức tranh quê. Làm nổi bật những cung bậc cảm xúc, những rung cảm tinh tế trong tâm hồn con người. Mưa xuân đã không còn như trước, cả hoa xoan cũng không còn như trước vì “mùa xuân đã cạn ngày”.

Mùa xuân đã cạn khi anh không đến. Mùa xuân đã hết khi mối tình đầu tan vỡ. ở đây, mùa xuân là của đất trời hay là mùa xuân của lòng người, của tình yêu? Có lẽ là cả hai? Chỉ một chủ “cạn” nhưng nó lại khái quát bao điều không thể nói. Nguyễn Bính đã nói được những tình ý kín đáo nhất trong tâm hồn con người”. Chữ “cạn” vừa là sự kết thúc, nhưng đồng thời nó cũng là sự mở đầu

“Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày”

Từ một cuộc hẹn không thành mà cơ duyên vĩnh viễn trôi. Nỗi đau khổ đầu đời như một tì vết sâu cứa vào tâm hồn em vào trái tim thơ trẻ của em. Những tưởng rằng mùa xuân đã cạn ngày thì tình yêu cũng chết trong em. Nhưng không. Khổ thơ cuối là sự bùng cháy mãnh liệt ngọn lửa khao khát yêu thương trong em. Đó là một sự tha thứ cho lỗi lầm muôn thuở trong tình yêu?

Hay là sự hồi sinh muốn sống lại sự yêu đời trong trắng trong em? Cô gái đã tha thứ tất cả và lại hi vọng vào tất cả. Vào tình yêu, vào mùa xuân, vào cuộc sống. Những “biến âm buồn trong nét nhạc” làm cho đêm chèo cùng trở nên lung linh huyền ảo.

Tưởng chừng như quá phũ phàng vói em, tưởng chừng như tất cả chỉ là ảo vọng vụt tan biến như bóng mây, nhưng cuối cùng niềm tin và hi vọng trong ẹm đã chiến thắng

“Bao giờ em mới gặp anh đây

Bao giờ hội Đăng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay?”

“Mưa xuân” không chỉ đơn thuần là một bức tranh quê. Nó còn là nỗi lòng của những kẻ đang yêu, của những chàng trai, cô gái thôn quê, của chính tâm hồn thi sĩ. Cũng ấm ức tủi hờn với cô gái, để rồi lại băn khoăn, trăn trở, bàng hoàng trước những sự đối lập của cuộc đời. Ta băn khoăn tự hỏi mình: phải chăng đó chính là cõi lòng ta?

icon-date
Xuất bản : 22/01/2024 - Cập nhật : 11/03/2024