Cùng Top lời giải trả lời chi tiết, chính xác câu hỏi: “Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện” và đọc thêm phần kiến thức tham khảo giúp các bạn học sinh ôn tập và tích lũy kiến thức bộ môn Triết học.
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện:
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - một trong hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng. Đây là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Triết học Mác khẳng định: Cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là thuộc tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng dù đa dạng và khác nhau đến mấy thì chúng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là vật chất mà thôi. Ngay bản thân ý thức vốn không phải là vật chất nhưng cũng chỉ là sự phát triển đến đỉnh cao của một thuộc tính, của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người, nội dung của ý thức có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới bên ngoài.
- Quan điểm toàn diện: đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ tri thức của các khoa học khác và hoạt động của con người, nhất là tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, Trong 20 năm đổi mới Đảng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.
- Quan điểm lịch sử cụ thể: Đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Chẳng hạn, thường thường trong các định luật của hóa học bao giờ cũng có hai điều kiện: nhiệt độ và áp suất xác định. Nếu vượt khỏi những điều kiện đó định luật sẽ không còn đúng nữa. Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó .
- Khi xem xét sự vật hiện tượng phải có quan điểm toàn diện. Yêu cầu:
+ Phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật và các khâu trung gian của nó.
+ Phải nắm được và đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ trong quá trình cấu thành sự vật .
- Bản thân quan điểm toàn diện đã bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Vì vậy, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt sự vật hiện tượng vào đúng không gian, thời gian mà sự vật, hiện tượng tồn tại .
Ví dụ: Ở Việt Nam, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng Sản đã xác định, cần đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trước hết là đổi mới tư duy về nhận thức xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, trong đó tập trung đổi mới về tư duy kinh tế.