logo

Trường phái triết học nào đồng nhất vật chất với khối lượng

icon_facebook

Đáp án và giải thích chính xác câu hỏi trắc nghiệm “Đồng nhất vật chất với khối lượng đó là quan niệm về vật chất của ai và ở thời kỳ nào?” cùng với kiến thức lý thuyết liên quan là tài liệu hữu ích môn Triết học dành cho các bạn học sinh và thầy cô giáo tham khảo.


Trắc nghiệm: Đồng nhất vật chất với khối lượng đó là quan niệm về vật chất của ai và ở thời kỳ nào?

A. Các nhà triết học duy vật thời kỳ cổ đại.

B. Các nhà triết học thời kỳ Phục hưng.

C. Các nhà khoa học tự nhiên thế kỷ XVII - XVIII.

D. Các nhà triết học duy vật biện chứng thời kỳ cổ đại.

Trả lời:

Đáp án đúng: C. Các nhà khoa học tự nhiên thế kỷ XVII - XVIII.

Đồng nhất vật chất với khối lượng đó là quan niệm về vật chất của các nhà khoa học tự nhiên thế kỷ XVII - XVIII.


Kiến thức tham khảo về Vật chất trong triết học


1. Vật chất là gì ?

Vật chất theo định nghĩa của Vladimir Ilyich Lenin là cái có trước, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức và là cái quyết định ý thức; là cái tác động lại vật chất; và nó có quan hệ biện chứng qua lại với nhau.


2. Quan niệm vật chất qua các thời kì

Phạm trù vật chất xuất hiện ngay từ khi triết học mới ra đời trong thời kỳ cổ đại, dưới chế độ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên nội dung của phạm trù này không phải là bất biến mà luôn luôn biến đổi và phát triển.

Đồng nhất vật chất với khối lượng đó là quan niệm về vật chất của ai và ở thời kỳ nào?

Khuynh hướng chung của các nhà triết học duy vật thời cổ đại là đi tìm một thực thể ban đầu nào đó và coi nó là yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng khác nhau của thế giới, tất cả đều bắt nguồn từ đó và cuối cùng đều tan biến trong đó. Tức là họ muốn tìm một thực thể chung, là cơ sở bất biến của toàn bộ tồn tại, là cái được bảo toàn trong sự vật dù trạng thái và thuộc tính của sự vật có biến đổi và được gọi là vật chất (tiếng Latin là materia). Trong lịch sử triết học cổ đại, các nhà triết học duy vật cũng quan niệm vật chất rất khác nhau. Thales (624-547 trước Công nguyên) coi vật chất là nước, Anaximenes (585-524 trước Công nguyên) coi vật chất là không khí, Heraclitus (540-480 trước Công nguyên) coi vật chất là lửa, Democritus (460-370 trước Công nguyên) coi vật chất là các nguyên tử... Nói chung các nhà triết học cổ đại quan niệm vật chất dưới dạng cảm tính và quy vật chất thành một thực thể cụ thể, cố định. Mặc dù có những hạn chế về mặt lịch sử, song những quan niệm trên lại có ý nghĩa tích cực trong việc đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm thời bấy giờ.

Đến thời kỳ cận đại, khoa học phát hiện ra sự tồn tại của nguyên tử, cho nên quan niệm của thuyết nguyên tử về cấu tạo của vật chất ngày càng được khẳng định. Trong giai đoạn thế kỷ 17 - thế kỷ 18, mặc dù đã có những bước phát triển, đã xuất hiện những tư tưởng biện chứng nhất định trong quan niệm về vật chất, song quan niệm đó ở các nhà triết học duy vật thời kỳ này về cơ bản vẫn mang tính chất cơ giới, đó là khuynh hướng đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc với khối lượng. Quan niệm này chịu ảnh hưởng khá mạnh bởi cơ học cổ điển của Newton, một lĩnh vực của vật lý được coi là phát triển hoàn thiện nhất thời bấy giờ. Cơ học cổ điển coi khối lượng của vật thể là đặc trưng cơ bản và bất biến của vật chất; thế giới bao gồm những vật thể lớn nhỏ khác nhau, cái nhỏ nhất không thể phân chia nhỏ hơn là các nguyên tử; đặc trưng cơ bản của mọi vật thể là khối lượng; tính tất yếu khách quan trong hiện thực là tính tất yếu khách quan được thể hiện qua các định luật cơ học của Newton; vật chất, vận động, không gian và thời gian là những thực thể khác nhau cùng tồn tại chứ không có quan hệ ràng buộc nội tại với nhau. Quan niệm này tồn tại và được các nhà triết học duy vật cũng như các nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng sử dụng cho đến tận cuối thế kỷ 19.

Thời kì hiện đại, những nghiên cứu của vật lý học trong thế giới vi mô đã phát hiện được nhiều đặc tính mới của thế giới vật chất, điều đó Gàng chứng minh cho quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính vô cùng vô tận của thế giới vật chất. Chẳng hạn vật lý học hiện đại đã chỉ ra rằng electron có những đặc tính: đó cũng là những hạt vật chất có khối lượng, điện tích, spin xác định. Tuy nhiên, vì electron có lưỡng tính sóng – hạt, nên trong sự vận động có khi nó thể hiện như hạt, có khi như sóng. Các đại lượng đặc trưng cho trạng thái của nó như năng lượng, tọa độ, xung lượng, mômen xung lượng… không đồng thời có trị số xác định như trong vật lý học cổ điển, mà chúng được chi phối bởi hệ thức bất định do Haidenbec nêu ra. Hệ số bất định thiết lập mối quan hệ giữa các đại lượng vật lý của hạt vi mô, trong đó đại lượng này được xác định chính xác, thì đại lượng khác lại không xác định chính xác được. Không thể xây dựng được một mô hình xác định về electron như đối với các hạt vĩ mô. Tính “sóng” của các hạt vi mô có nội dung không hoàn toàn giống với tính “sóng” trong vật lý cổ điển. Sóng gắn với các hạt vi mô là sóng vật chất, không phải là sóng điện từ. Sóng vật chất giống với sóng điện từ ở tính tuần hoàn biểu hiện ở chu kỳ, bước sóng và có mang năng lượng. Sóng vật chất và sóng điện từ đều thuộc về hình thái vật chất “trường” và đều có tính liên tục. Nhưng sóng vật chất khác với sóng điện từ ở chỗ: sóng điện từ có thể có thiết bị để phát ra và thu vào, trong khi sóng vật chất.

Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất, phản hạt, phản vật chất không phải là cái “phi vật chất”, mà cũng là một dạng tồn tại của vật chất. Dạng tồn tại này có những tính chất vật lý trái ngược với những tính chất của hạt. Giữa hai tính chất này của vật chất có quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể chuyển hoá qua lại với nhau để duy trì sự tồn tại của vật chất chứ không phải để “tiêu tan” vật chất như quan niệm duy tâm của Makhơ trước đây. Như vậy phải nói rằng vật lý học hiện đại không bác bỏ phạm trù vật chất theo quăn niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng mà càng chứng minh tính đúng đắn của nó. Nghĩa là khoa học hiện đại chứng minh tính chất vô cùng vô tận, vĩnh viễn tồn tại của thế giới vật chất. Vật chất nói chung không mất đi, nó tồn tại dưới vô vàn các dạng, các hình thức khác nhau. Các hình thức tồn tại khác nhau của thế giới vật chất có thể chuyển hoá lẫn nhau một cách vô hạn. Lý thuyết tương đối của A. Anhstanh, cơ học lượng tử, lý thuyết trường lượng từ đã nghiên cứu cấu trúc vật chất ở tầng sâu hơn cấu trúc vật chất được nghiên cứu bởi cơ học cổ điển đã tìm ra những đặc tính mới của thế giới vật chất và đã chứng minh được mối liên hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các dạng vật chất như năng lượng và khối lượng, hạt và sóng, hạt và trường, các trường lực tương tác giữa các hạt vi mô. Điều đó là những bằng chứng khoa học chứng minh cho quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về thế giới vật chất.

icon-date
Xuất bản : 23/03/2022 - Cập nhật : 27/03/2022

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads