logo

Phân tích Bản tuyên ngôn độc lập

Tuyên ngôn độc lập được biết đến với một kiệt tác xuất chúng mà Hồ Chí Minh đã để lại cho nước nhà, nó chính là minh chứng cho nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.


Mở bài Phân tích Bản tuyên ngôn độc lập

         Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là một áng văn chính luận hào hùng, mẫu mực; thể hiện khát vọng tự do và trái tim yêu nước của triệu triệu người Việt Nam.

Phân tích Bản tuyên ngôn độc lập | Văn mẫu 12 hay nhất

Thân bài Phân tích Bản tuyên ngôn độc lập

        “Tuyên ngôn độc lập” ra đời là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Nó đánh dấu sự chấm dứt, sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ thực dân, phong kiến, khép lại thời kì lịch sử tăm tối, nô lệ hàng trăm năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, mở ra một kỉ nguyên mới. Mặt khác, với nội dung khái quát sâu sắc cùng tầm vóc của tư tưởng, bản Tuyên ngôn đã khẳng định được vị thế bình đẳng, lập trường chính nghĩa của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế đồng thời đập tan âm mưu quay trở lại xâm lược cùng bản chất tàn bạo của chúng trước dư luận quốc tế.

       Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực, đặc sắc có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận với chất văn chương. Sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm được thể hiện chủ yếu ở hệ thống lập luận chặt chẽ và văn phong sắc sảo, giàu tính thẩm mĩ của Hồ Chí Minh.  Người nêu lên vấn đề Nhân quyền, Dân quyền - quyền của con người và quyền của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Người dẫn “Tuyên ngôn độc lập năm 1776” của Mĩ và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp”,1791 để “suy rộng ra” rằng “Tất cả mọi người sinh ra trên trái đất đều có quyền bình đẳng”. Hai bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp - thế kỉ XVIII – là di sản tư tưởng của nhân loại, đánh dấu buổi bình minh của cuộc cách mạng tư sản, lật đổ chế độ phong kiến. Vì vậy, Người đã lấy hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của lịch sử nhân loại mở đầu cho bản Tuyên ngôn của nước Việt Nam, khẳng định quyền của dân tộc Việt Nam trước nhân dân thế giới một cách khôn khéo, kiên quyết, sáng tạo. Người vừa tỏ ra tôn trọng những danh ngôn bất hủ của họ, vừa nhắc nhở họ đừng phản bội lại tổ tiên mình, đừng làm vấy bùn lên lá cờ “tự do, bác ái” mà họ đã giương cao trong các cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc họ. Sáng tạo ở chỗ viện dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới để đặt ba cuộc cách mạng; ba nền độc lập và ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau.  Điều đó khẳng định vị thế của một đất nước đầy kiêu hãnh trước thế giới. Sáng tạo ở chỗ: Từ vấn đề của cá nhân nâng lên thành vấn đề quyền của các dân tộc. Cụm từ “Suy rộng ra” thông minh, chặt chẽ, đanh thép như: “Một phát súng lệnh khởi đầu cho sự tan rã của hệ thống thuộc địa thế giới” (Nguyễn Đăng Mạnh), là đòn đánh phủ đầu vào âm mưu tái chiếm của Pháp. Đó là hành động táo bạo, là tài nghệ sáng suốt của Hồ Chí Minh. Tất cả kết tinh từ tầm tư tưởng, văn hóa lớn của Hồ Chí Minh vì Nhân quyền, Dân quyền của dân tộc và của cả nhân loại nói chung.

       Khi luận tội kẻ thù, Người lên án, tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với Đông Dương, vạch trần bản chất lợi dụng lá cờ “tự do, bác ái” để cướp nước ta, áp bức đồng bào ta của bọn chúng. Chúng độc quyền kinh tế, cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu....Chúng đàn áp chính trị không cho nhân dân ta một chút quyền tự do “tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.... để “từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”. Thực dân Pháp đã từng huênh hoang “bảo hộ”, “khai hóa văn minh” cho nước ta nhưng khi Nhật xâm lược nước ta thì Pháp quỳ gối đầu hàng, Pháp bỏ chạy, kết quả là trong 5 năm, Pháp bán nước ta hai lần cho Nhật. Vậy là “bảo hộ” hay hèn nhát? Là có công hay có tội?  Nhật đầu hàng Đồng minh, ta nổi dậy giành chính quyền, đánh đổ chúng dựng lên chế độ Dân chủ Cộng hòa. Hai chữ “sự thật...” lặp đi lặp lại với sự kiện “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Người đã dựng lại cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động và vô cùng oanh liệt của dân tộc, đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm, đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ để giành lấy tự do như một tất yếu lịch sử. Đó cũng chính là lời tuyên bố khai sinh ra nước Việt Nam độc lập. Tất cả các sự kiện trên là “sự thật” nên Người đã ràng buộc các nước Đồng minh phải công nhận nền độc lập của Việt Nam: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn”, “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam”. Điều này buộc họ phải ủng hộ nền độc lập của Việt Nam. Người khẳng định “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”  và cảnh báo đối với kẻ thù: để bảo vệ thành quả thì dân tộc “Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ, giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Lời kết như sấm truyền cảnh báo cho kẻ thù từ ngàn xưa: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm - Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.  


Kết bài Phân tích Bản tuyên ngôn độc lập

        Quả đúng, “Tuyên ngôn độc lập”đã lay động hàng triệu trái tim yêu nước Việt Nam với tình cảm tha thiết, mãnh liệt cũng như quyết tâm đến cùng bảo vệ nền độc lập.

Các bài viết liên quan khác:

Soạn bài: Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Phần 1: Tác giả

Soạn bài: Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Phần 2: Tác phẩm

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 15/12/2022