logo

Phân tích bài thơ Tự tình 2 ngắn nhất ( Dàn ý + bài mẫu)

"Tự tình II" là một sáng tác tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương, tác phẩm nằm trong chùm thơ tự tình gồm ba bài thơ. Thi phẩm như một tiếng nói bênh vực người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa đồng thời qua đó, nhà thơ cũng thể hiện tâm trạng đau buồn, sự phẫn uất trước duyên phẩm hiu, lận đận của bản thân mình. Dưới đây là bài Phân tích bài thơ Tự tình 2 ngắn nhất mời quý thầy cô cùng các bạn tham khảo.


Dàn ý Phân tích bài thơ Tự Tình 2 

1. Mở bài

- Giới thiệu chung : Hồ Xuân Hương là 1 nhà thơ lớn của Việt Nam. Được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm (Xuân Diệu)

- Giới thiệu về bài thơ "Tự tình"

2. Thân bài

- Bài thơ thể hiện nỗi buồn và tâm sự của nhà thơ về số phận lẻ loi của mình và niềm khát khao được hạnh phúc, được quân tử yêu thương.

*Hai câu đề:

"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non"

+Hoàn cảnh :giữa đêm khuya, hao thức, nghe tiếng trống dồn dập sang canh

+Thấy mình cô độc giữa cuộc đời . PT nghệ thuật sử dụng từ ngữ mạnh, nghe thật thấm thía

*Hai câu thực:

"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"

Nói lên suy nghĩ của nhà thơ:

+ Buồn, uống chén rượu để quên nhưng càng uống càng tỉnh, tỉnh lại càng buồn hơn.( Hình ảnh người con gái lấy chính mình ra làm đồ nhấm)

+ Nhìn trăng thấy trang đã xế bóng mà lại chưa tròn. Vầng trăng như là thân phận của nhà thơ.

"Khuyết chưa tròn" : Chưa tuyệt vọng vẫn còn ấp ủ niềm hi vọng.

*Hai câu luận:

"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn"

+ Mở rộng tầm nhìn: những đám rêu trên mặt đất, mấy hòn đá phía chân trời. Những hình ảnh rất thự, ước lệ.

+ Cái nhìn khoẻ khoắn. Có 1 sự phản kháng, sự vươn lên để khẳng định chỗ đứng của mình.

* Câu kết:

"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con."

+ Từ thiên nhiên xung quanh, nhìn lại bản thân mình, cảm thấy ngán nỗi, buồn cho mình, nghịch lí.

+ Thời gian cứ trôi qua xuân đi xuân lại lại, 1 sự tuần hoàn liên tục nghe mà ngán ngẩm cho duyên phận của mình. Tuổi xuân trôi qua ma lại ko có tình duyên trọn vẹn

+ Sự chia sẻ ít ỏi

+ Một nỗi buồn chán và thất vọng.

3. Kết bài:

- Một bài thơ chứa đựng nỗi buồn và niềm khát khao chân thành

- Trong nền thơ trung đại, lần đầu tiên mới có 1 người phụ nữ dám nói lên điều ấy


Phân tích bài thơ Tự Tình 2 - Bài mẫu 1

        Hồ Xuân Hương được Xuân Diệu tôn vinh là "Bà chúa thơ Nôm". Bà tài hoa thông minh nhưng cuộc đời gặp nhiều bất hạnh, đường tình duyên lận đận, hai lần lấy chồng đều toại nguyện. Bà để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ giàu giá trị mang cả chữ Hán và chữ Nôm. Nổi bật trong sáng tác thơ Nôm hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định đề cao vẻ đẹp khát vọng của họ. Tác  phẩm "Tự tình II" tiêu biểu cho phong cách sáng tác của tác giả, nằm trong chùm thơ tự tình gồm ba bài thơ. Tác phẩm như một tiếng nói bênh vực, đông vui sống cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua đó, phê phán xã hội phong kiến vô nhân đạo và  ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ và thể hiện khát khao hạnh phúc lứa đôi ,khát vọng sống mãnh liệt. Điều đó được thể hiện qua khổ thơ sau:

"Đêm khuya vắng vắng trống canh dồn

 Trơ cái hồng nhan với nước non

 Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

 Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

 Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

 Đâm toạc chân mây đá mấy hòn

 Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

 Mảnh tình san sẻ tí con con!

       Đêm tối đến là khoảng thời gian con người đối diện với chính mình. Nếu người đọc đã từng đồng cảm xót xa phải người phụ nữ có chồng đi chinh chiến người trinh phụ buồn tủi cô đơn phải tâm sự với ngọn đèn móc ké Đêm tối đến là khoảng thời gian con người đối diện với chính mình. Nếu người đọc đã từng đồng cảm xót xa, người phụ nữ có chồng đi chinh chiến người chinh phụ buồn tuổi cô đơn phải tâm sự với ngọn đèn"Đèn có biết dường bằng chẳng biết". Hai nàng Kiều tủi nhục ê chề khi phải tiếp khách làng chơi "Giật mình mình lại thương mình xót xa". Nhân vật trữ tình trong bài thơ "Tự Tình II" cùng mang một nỗi niềm cô đơn buồn tủi :

"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non"

       Mở đầu bài thơ là một khoảng không gian tĩnh lặng vào thời gian "đêm khuya" con người thường về đối diện với lòng cô đơn bé nhỏ. Âm thanh "trống canh dồn" "văng vẳng" giữa đêm khuya tĩnh mịch, thanh vắng gợi cảm nhận được thời gian trôi chậm chậm.Nhân vật trữ tình như cảm nhận được bước đi của thời gian. Thời gian trôi qua theo từng hồi trống gấp gáp liên hồi khiến cho lòng người nặng trĩu. Câu thơ thứ hai tác giả sử dụng đảo ngữ "trơ" đặt ở đầu câu để nhấn mạnh sự nhỏ bé, cô độc. "Hồng nhan" là từ dùng để chỉ một người con gái đẹp. Nhưng tác giả lại sử dụng "cái hồng nhan" như một sự mỉa mai, khinh thường, nhan sắc gắn liền với những đồ vật vô tri vô giác bởi "cái hồng nhan" nhỏ bé còn "nước non" thì quá rộng lớn, mênh mông thể hiện nỗi xót xa cay đắng và như một lời thách thức, thái độ ngang bướng mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương với xã hội phong kiến.

       Trước không gian mênh mông,rộng lớn, người phụ nữ nhận ra thân phận lẻ loi, cô đơn của mình. Âm thanh của "trống canh dồn" lại càng thêm một nỗi buồn khó tả. Chính vì vậy, nhân vật trữ tình mượn rượu để giãi bày tâm sự:

"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"

        Trong cái không gian hiu quạnh, cô độc của màn đêm "văng vẳng" vài tiếng trống người phụ nữ tìm đến chén rượu mong muốn giãi bày những nỗi sầu của cuộc đời. Cụm từ "say lại tỉnh" như một vòng luẩn quẩn càng uống lại càng tỉnh làm cho người đọc cảm nhận được mượn rượu giải sầu lại càng sầu, rượu chỉ mang lại cho người trữ tình cái đắng cái chát. Hình ảnh "vầng trăng" xuất hiện nhưng lại "khuyết chưa tròn". Phải chăng tác giả đang ngụ ý cho chính nhan sắc và tình yêu của mình, nhan sắc đã tàn phai theo năm tháng nhưng tình yêu vẫn chưa hạnh phúc trọn vẹn. Giờ đây, ánh trăng đó sắp tàn và đang dần khuất bóng nhưng người phụ nữ vẫn còn suy tư chưa ngủ được. Trăng "khuyết chưa tròn" như cuộc tình dang dở, éo le của người phụ nữ.

      Nếu hai câu thực thể hiện tình duyên éo le, tội nghiệp của nhà thơ thic hai câu luận thể hiện sự phẫn uất, căm phẫn trước duyên phận ngang trái của mình:

"Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn"

       Câu thơ tả cảnh sử dụng biện pháp đối lập. Hình ảnh " tuy nhỏ bé mong manh nhưng với sức mạnh mạnh mẽ "xiên ngang mặt đất". Hình ảnh "rêu từng đám" đâm "xiên ngang mặt đất" gợi cho chúng ta những liên tưởng tưởng tượng đến sự phản kháng mạnh mẽ của nó với những thứ lớn lao, to lớn hơn nó. Đá nhọn,cứng rắn nhưng lại có thể "đâm toạc chân mây" trước mắt. Sự hoà hợp, đồng điệu của con người và thiên nhiên, luôn đối đầu với những khó khăn thử thách nhưng chưa bao giờ thành công. Nhà thơ mượn hình ảnh thiên nhiên để bộc lộ thái độ phản ứng khá mạnh trước tình duyên dang dở bằng giọng thơ phản kháng, phẫn uất. Ta thấy rõ được tác dụng của nghệ thuật đối lập và đảo ngữ ở hai câu thơ. "Rêu" yếu ớt, "đá" cứng rắn để nhấn mạnh tâm trạng phẫn uất, bộc lộ sự ngang bướng, không khuất phục, giành quyền sống và mưu cầu hạnh phúc chính đáng cho bản thân.

      Tưởng chừng cuộc đời  như mở ra cánh cửa hi vọng  tình yêu cho Hồ Xuân Hương và toàn thể người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nhưng hai câu thơ kết tác giả đã mở ra trước mắt người đọc một thực tại khắc nghiệt, vừa chua xót, vừa cay đắng:

"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con"

       Hai câu thơ kết nhân vật trữ tình đã bộc lộ nỗi cay đắng của đời người "Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại", người phụ nữ đã phát "ngán", ngán ngẩm trước số phận cuộc đời. Quy luật của thời gian đó là chỉ trôi theo một chiều và không trở lại. Xuân đến rồi xuân lại đi, nhưng con người lại khác, người phụ nữ tuổi xuân trôi đi nhưng không bao giờ quay trở lại. Bằng nghệ thuật tăng tiến theo chiều giảm dần "mảnh tình san sẻ tí con con". Người phụ nữ với mảnh tình nhỏ bé, ít ỏi lại còn phải đi "san sẻ". Không được hưởng tình yêu cao đẹp nhưng đến khi có được tình yêu thì lại phải san sẻ cho người khác. Cách miêu tả cho thấy nữ sĩ chán chường, cay đắng trước xã hội phomg kiến. Qua đó ngầm ẩn ý về số phận chịu cảnh thê thiếp, dưới chế độ phong kiến không được tôn trọng và không có tiếng nói. Sự phẫn uất, căm phẫn về số phận "năm thê bảy thiếp" được Hồ Xuân Hương một lần nữa tái hiện qua  "Lấy chồng chung"

"Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Năm chừng mười hoạ hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không"

       Bài thơ "Tự tình 2" sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ đặc sắc độc đáo,  cách dùng từ tinh tế "trơ cái hồng nhan", "say lại tỉnh", "khuyết chưa tròn", "xiên ngang", "đâm toạc". Qua đó thể hiện tâm trạng đau buồn, phẫn uất trước duyên phận hẩm hiu của mình. "Tự tình II" như một lời bộc bạch về số phận, tình yêu suy tư trăn trở của nhân vật trữ tình trong cuộc đời. Từ đó người đọc đồng cảm, cảm thông trước khát vọng sống, khát khao về một hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. 

Phân tích bài thơ Tự Tình 2 - Bài mẫu 1

Phân tích bài thơ Tự Tình 2 - Bài mẫu 2

       Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần thể hiện rõ tinh thần nhân đạo trong văn học. Chùm thơ Tự tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong văn học Việt Nam - Hồ Xuân Hương.

       Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và phần nào chịu ảnh hưởng cái không khí sôi sục của phong trào quần chúng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người. Không khí ấy tác động đến tâm hồn vốn thông minh và giàu lòng trắc ẩn của bà. Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trăn trở về đời mình, một cuộc đời lắm éo le, bạc phận: Lấy chồng hai lần, hai lần làm lẽ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó, với bà là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau “hồng nhan bạc phận”. Mở đầu bài thơ "Tự tình", tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc không gian xao xác tiếng gà.

       Đây là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm nền cho sự thổ lộ tâm trạng tác giả: "Cảnh khuya văng vẳng trống canh dồn". "Văng vẳng” chính là từ tượng thanh nhưng ở đây nó vừa biểu thị tâm trạng, không khí, cái không khí buồn vắng lặng của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhối một tâm sự:

“Trơ cái hồng nhan với nước non”

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu đưa hương say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

       Trong đêm khuya tĩnh mịch, cái sự vật đều trở về trạng thái lặng thì tiếng trống “vắng vẳng” nghe càng trở nên da diết, dồn dập hơn, nó như thúc giục người phụ nữ về sự chảy trôi của thời gian, của thanh xuân. Câu thơ thứ hai diễn tả nỗi niềm trơ trọi, cô đơn của những người phụ nữ trong không gian quạnh hiu đó. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh hơn nữa vào thân phận bất hạnh của họ. Từ “hồng nhan” vốn được hiểu là người con gái xinh đẹp, có nhan sắc. Nhưng đến đầu thế kỉ XVIII chữ “hồng nhan” thường gắn liền với yếu tố “bạc mệnh”: để nói lên số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: “Rằng hồng nhan tự thuở xưa/ Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu” hay “Hồng nhan quen thói má hồng đánh ghen”. Trong bài thơ này, Hồ Xuân Hương dùng từ “hồng nhan” với ý nghĩa hồng nhan bạc mệnh, diễn tả nỗi niềm chua xót trước thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong nỗi đau của kẻ hồng nhan bạc mệnh, nhân vật trữ tình tìm đến rượu để quên, đến trăng để bầu bạn nhưng chén rượu uống vào muốn say mà lại càng tỉnh, ngắm trăng lại càng nhận rõ thân phận bất hạnh của bản thân. Trăng sắp tàn mà vẫn khuyết, cũng như con người thanh xuân sắp qua mà tình duyên vẫn còn lận đận, lỡ dở.

       Mỗi khi có chuyện gì đó sầu muộn, người xưa thường tìm đến trăng đến rượu để trút bầu tâm sự. Chỉ muốn uống thật say, hương rượu thật nồng để quên đi tất cả, nhưng nghịch lí thay, chén rượu đưa lên mũi, hương nồng vào mũi người muốn say nhưng tâm và suy nghĩ vẫn đang rất tĩnh. Không có nỗi buồn nào biến mất ở đây mà càng làm hiện hữu rõ nỗi lòng của người phụ nữ lúc này. Hình ảnh vầng trăng xuất hiện nhưng khuyết chưa tròn phải chăng ngụ ý cho thân phận, cho hạnh phúc của chính tác giả. Là người tài giỏi nhưng duyên phận hẩm hiu chưa một lần trọn vẹn. Tuổi xuân dần đi qua mà hạnh phúc vẫn chưa tới bến đỗ:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

       Hình ảnh rêu được đưa ra đây nhưng mang những dụ ý sâu xa của tác giả Hồ Xuân Hương. Rêu là loài mỏng manh nhỏ bé nhưng lại có sức sống vô cùng mạnh mẽ, không dừng lại đó, ở bất cứ một điều kiện nào thì nó vẫn có thể tươi tốt, dù là điều kiện sống như thế nào đi chăng nữa. Hình ảnh "rêu từng đám" đâm xuyên ngang mặt đất gợi ra cho chúng ta những liên tưởng mạnh mẽ về sự phản kháng mạnh mẽ cũng như sự chống đối của nó với thứ có thể mạnh hơn nó. Hình ảnh "đá mấy hòn" cũng vậy, đối lập với sự nhỏ bé của những viên đá với sự rộng lớn của trời đất, nó lại càng làm nổi bật sức mạnh của những viên đá, quả thực nó không tầm thường một tí nào. Sự đồng điệu của người và thiên nhiên, luôn đối mặt với khó khăn thách thức nhưng chưa bao giờ đi đến thành công. Kiếp làm vợ lẽ, dù cố thoát ra nhưng vẫn không được. Cho nên mới có hai câu cuối:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con”

       Câu thơ thể hiện nỗi chán chường, ngao ngán khi tuổi xuân con người ra đi mà không bao giờ trở lại. “ Xuân” vừa là mùa xuân của đất trời vừa là tuổi xuân của con người. Cùng là “ xuân” thế nhưng xuân của đất trời đi rồi đến còn xuân của con người một đi không trở lại. Bởi thế, sao tránh khỏi nỗi đau buồn, tủi hổ!

       Đã nhiều lần chính nhà thơ lên tiếng “ chém cha cái kiếp lấy chồng chung” nhưng rồi lại đau buồn bởi quy luật “ gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi” (Nguyễn Du). Khao khát hạnh phúc trọn vẹn nhưng cuối cùng chỉ còn lại sự xót xa của một thân phận hai lần làm lẽ. “ Mảnh tình san sẻ tí con con.”

       Chỉ đơn độc, duy nhất một “ mảnh tình” nhưng cũng phải “ san sẻ” từng “ tí con con”. Tấm lòng cô độc mềm yếu nhưng cũng chẳng được vẹn toàn. Trong xã hội phong kiến, hạnh phúc với người phụ nữ như một chiếc chăn quá hẹp, người này ấm thì người kia lạnh “ kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”.

       Như vậy, bài thơ Tự tình đã hiện lên với những hình ảnh giản dị mà đặc sắc, hình ảnh giàu sức gợi cảm, tinh tế từ đó nói lên tâm trạng của chủ thể. Bài thơ hiện lên cả bi kịch và khát vọng sống hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Trong những lúc buồn tủi, bế tắc, người phụ nữ cố vươn lên nhưng lại vẫn bị rơi vào cái vòng quay luẩn quẩn, tù túng của xã hội đương thời.


Sơ đồ Phân tích bài thơ Tự Tình 2 

Sơ đồ Phân tích bài thơ Tự Tình 2
icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 21/08/2023