logo

Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm


Sơ đồ tư duy phân tích 9 câu thơ đầu bài thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm - ảnh 1

Dàn ý phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm

a. Mở bài:

- Giới thiệu chung về tác phẩm "Đất Nước" và tác giả Nguyễn Khoa Điềm

- Giới thiệu về 9 câu thơ đầu trong trích đoạn "Đất Nước"

b. Thân bài:

- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm: Trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cùng với các nhà thơ Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo,... Ông được mệnh danh là "người cả đời viết về đất nước và nhân dân"

- Giới thiệu khái quát về trích đoạn "Đất Nước": Nằm trong trường ca "Trường ca Mặt đường khát vọng" xuất bản năm 1974. Đoạn trích nằm ở chương V của tác phẩm kể trên

- "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi": Sự tồn tại của Đất Nước đã có từ rất lâu đời, lâu đến mức mà chính chúng ta cũng không thể xác định được thời gian mà Đất Nước bắt đầu xuất hiện. Chỉ biết rằng Đất Nước đồng hành cùng với chúng ta từ khi tấm bé tới khi đã trưởng thành

- "Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể": Nếu như Đất Nước của các nhà khảo cổ học bắt đầu bằng những con số khô khan, chính xác, thì sự bắt đầu của Đất Nước trong tác giả bắt nguồn từ những điều nhỏ bé, gần gũi của dân tộc. Chính những câu chuyện cổ tích, những bài học đạo lí làm người, ước mơ khát vọng của nhân dân về lẽ công bằng đã góp phần tạo nên chiều dày lịch sử cho Đất Nước.

- "Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn": Đất Nước được bắt đầu bởi những truyền thống văn hóa tốt đẹp của người dân. Sự gần gũi quen thuộc của các nét đẹp văn hóa vẫn luôn hiện hữu xung quanh cuộc sống từ thế hệ này đến thế hệ khác. Gợi nhắc đến Sự tích Trầu cau với vẻ đẹp của tình người, tình anh em, nghĩa vợ chồng.

- "Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc": Đất Nước của những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ. Tuy có bị dồn đến đường cùng vẫn luôn dẻo dai, bất khuất giống như cây tre kia. Trải qua biết bao nhiêu trận đánh lại càng ngày càng trưởng thành hơn nữa. Cây tre còn là đại diện cho hình ảnh của con người Việt Nam, cần cù, siêng năng, chịu thương, chịu khó. Gắn liền với truyền thuyết Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt nhổ tre đánh bại quân xâm lược

- "Tóc mẹ thì búi sau đầu": Hình ảnh mái tóc dài của người phụ nữ Việt. Sự tần tảo, nhẹ nhàng nhưng cũng chẳng kém phần thướt tha, quyến rũ.

- "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn": "Gừng càng già càng cay/ Muối càng lâu càng mặn" ý chỉ sự thủy chung, son sắt, mặn nồng trong tình yêu của đôi vợ chồng. Đó là những phong tục tốt đẹp với những hàm nghĩa chúc mừng sâu xa

- "Cái kèo, cái cột thành tên": Phong tục đặt tên con gắn với những đồ vật trong nhà của cha ông ta từ xa xưa

- "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng": Đất Nước chúng ta vốn xuất phát điểm là một đất nước nông nghiệp, đặc biệt là nền nông nghiệp lúa nước. Vậy nên hình ảnh những người nông dân vất vả chăm sóc cho từng cây lúa, hạt thóc đã trở thành một hình ảnh thật đẹp không thể nào thiếu đối với chúng ta.

- "Đất Nước có từ ngày đó...": Đất Nước được bắt đầu từ những điều nhỏ bé nhất trong cuộc sống, gắn liền với cuộc sống của nhân dân và là một phần không thể tách rời trong cuộc sống của nhân dân

- Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật

- Mở rộng những nhận xét, đánh giá của các tác giả khác

c. Kết bài: Nêu suy nghĩ, cảm xúc của em về nội dung của phần phân tích trên

Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất Nước  của Nguyễn Khoa Điềm - ảnh 2

Mở bài phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm


Bài mẫu 1

Đất nước là đề tài phong phú thơ ca, trong mỗi thời kỳ lịch sử đất nước được nhìn nhận ở những gương mặt khác. Người đọc không quên cảm xúc chân thành, tha thiết của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước,chúng ta không khỏi tự hào là người con của đất việt anh hùng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trường ca mặt đường khát vọng được Nguyễn khoa Điềm hình thành ở chiến khu trị thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, thời điểm miền nam bị tạm chiếm, đế quốc mĩ và bọn tay sai ra sức xuyên tạc về Đảng Cộng Sản, về cách mạng nhằm lôi kéo, mua chuộc thanh niên vào chốn ăn chơi và quên đi trách nhiệm với đất nước. Bản trường ca ra đời đã đánh thức tinh thần trách nhiệm và giúp thế hệ tự nhận rõ ý thức hơn về vai trò và trách nhiệm của họ đối với đất nước.


Bài mẫu 2

Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin nay đã nghỉ hưu. Các tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, Trường ca Mặt đường khát vọng. Đất nước là bài thơ được trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đặc biệt thể hiện qua 9 câu thơ đầu bài.


Bài mẫu 3

“Đất Nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Nghe dịu nỗi đau của mẹ”

(Đất nước tôi – Tạ Hữu Yên)

Đất Nước và mẹ là những điều thiêng liêng làm nên nguồn cội, từ lâu đã trở thành cảm hứng sáng tác của nền văn học lấy tinh thần yêu Tổ quốc mình đặt lên vai. Ở mỗi tác giả, chúng ta bắt gặp những cảm hứng khác nhau để từ đó hình tượng Đất Nước chưa bao giờ lặp lại mình qua lăng kính cá nhân của những người làm nghệ thuật. Đến với Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng Đất Nước được cảm nhận một cách mới mẻ, độc đáo qua lối thơ giàu chất trữ tình, giọng thơ suy tưởng, mang nhiều triết lý. Nhà thơ trí tuệ này đã dành cả chương 5 – Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng để luận giải về sự ra đời của Đất Nước thông qua nhiều phương diện lịch sử, địa lý, văn hoá dân gian để đi đến khẳng định Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Trong dòng suy tưởng ấy, cội nguồn của Đất Nước hiện ra ở 9 câu thơ đầu tiên.


Kết bài phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm


Bài mẫu 1

Đoạn thơ cho chúng ta có cái nhìn tổng quát về nguồn gốc hình thành Đất Nước theo sự chiêm nghiệm mang tính nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Để trong chúng ta, thế hệ trẻ hôm nay nhận ra Đất Nước có trong mỗi tâm hồn, hiện hữu trong đời sống văn hoá, phong tục, tập quán của nhân dân. Đất Nước còn là hiện thân của đời sống đấu tranh và lao động. Không chỉ thế, Đất Nước sẽ là tiếng hát đầu tiên ca ngợi lối sống nghĩa tình, đoàn kết của dân tộc Việt Nam.


Bài mẫu 2

Tình yêu quê hương đất nước, yêu văn hóa dân gian của dân tộc đã là nên đã hình tượng đất nước ở Nguyễn khoa Điềm, một đoạn thơ ngắn mà đã chạm vào kỉ niệm ấu thơ, tự hào về gia đình, dòng họ, tổ quốc, của mỗi người dân việt nam. Đoa là bài học quý báu cho thế hệ ở bất kì hoàn cảnh lịch sử nào.


Bài mẫu 3

Đoạn trích trên đã thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt của tác giả về quê hương, đất nước. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc. Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy riêng con đường của mình khi tiến đến đất nước, để rồi Đất nước hiện ra thật bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá một vẻ đẹp mới của đất nước mà qua đó ta nâng cao thêm tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của ta bây giờ không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, gìn giữ đất nước, góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.


Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm học sinh giỏi 


Bài mẫu 1

“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều”

Quê Hương, Đất Nước , hai tiếng giản đơn thân thuộc mà luôn chạm vào đáy sâu tâm hồn con người mỗi khi nhắc đến. Mỗi vần thơ ngợi ca đất nước – quê hương đều khiến trái tim ta ngân lên những giai điệu tự hào, phấn chấn. Đó là một đất nước mang « hình tia chớp » trong thơ Trần Mạnh Hảo, một Đất nước bền gang bất khuất « rũ bùn đứng dậy sáng lòa » trong thơ Nguyễn Đình Thi, một đất nước « Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững - Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa » trong cái nhìn của Huy Cận. Có thể nói rằng , muốn viết những vần thơ tuyệt vời về Đất nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân ca hay một tiếng thơ cổ điển... Mà trên hết, đó là một tình yêu chân thật, nồng nàn và một ý thức tự tôn dân tộc, gắn sứ mệnh của mình với vận mệnh của non sông. Cùng viết về đề tài này, ở đoạn thơ “Đất Nước” (trích trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”), Nguyễn Khoa Điềm đã chọn một lối đi riêng đem đến cho người đọc những trải nghiệm mới mẻ, độc đáo trong cách lí giải về đất nước. Điều đó thể hiện rõ nét qua đoạn thơ sau :

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất Nước có từ ngày đó…”

Tác phẩm được trích từ Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị - Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang ở giai đoạn cam go, ác liệt nhất. Với giọng thơ thủ thỉ tâm tình vừa nồng nàn tha thiết vừa suy tư sâu lắng, thi sĩ đã lí giải về Đất Nước thật giản dị, mộc mạc, gần gũi mà thú vị, đầy bất ngờ. Từng dòng thơ như thức tỉnh ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ về tinh thần yêu nước, sẵn sàng đứng dậy đấu tranh để bảo vệ tổ quốc.

Nếu hai tiếng "quê hương" gợi trong ta những xúc cảm dịu dàng, gợi về miền nhớ miền thương với sự gần gũi quê mùa như những câu thơ đậm chất đồng nội của nhà thơ Đỗ Trung Quân : Quê hương là chùm khế ngọt, Quê hương là vàng hoa bí/ Là hồng tím giậu mồng tơi/ Là đỏ đôi bờ dâm bụt… thì hai từ Đất Nước lại gợi ra cái thâm nghiêm, kì vĩ, cái hoành tráng , kiêu hùng trong lòng người. Nhưng thật lạ kì khi ta bắt gặp những vần thơ trong "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm, cái cảm giác gần gũi thân thuộc của mùi rơm rạ, của sắc áo nông dân, của bờ tre giếng nước quê hương cứ ăm ắp đầy lên, mơn man và dịu ngọt biết mấy.

Bằng giọng thơ thủ thỉ trò chuyện trong vai trò của lớp người anh đi trước, Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo "giác ngộ" cho người em về ý thức trách nhiệm với Đất Nước. Từng lời giải thích nhẹ nhàng tự nhiên như lời ăn tiếng nói thường ngày mà gợi nhiều suy tư sâu lắng. Hẳn người em sẽ không cảm thấy nặng nề khó hiểu :

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Có lẽ em chưa hiểu rằng đất nước có từ bao giờ, hoặc cũng có thể câu hỏi đó là điểm xuất phát mà Nguyễn Khoa Điềm chọn để bắt đầu cho một câu chuyện dài về Đất Nước. Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì : Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!” (Nguyễn Khoa Điềm – Tác giả và Tác phẩm). Cách nói ấy đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Hiểu Đất Nước phải đi từ cội nguồn của bốn nghìn năm trước. Nhưng khác với tư duy thông thường, câu trả lời của nhà thơ không phải là một mốc thời gian cụ thể nào mà đưa em vào không gian cổ xưa huyền thoại, để rồi tự em sẽ cảm nhận được cả chiều dài lịch sử và bề dày của văn hóa quê hương :

“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Các mốc thời gian hình thành nên Đất Nước như thời điểm ra đời, bắt đầu xây dựng và lớn lên, tất cả đều được nhà thơ hình ảnh hóa, cổ tích hóa bởi những thứ thật gần gũi, thân thương. Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để giải thích sự ra đời của Đất Nước bằng một cách diễn đạt thật lạ. “Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương qua lời kể “Ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ… Có nghĩa là Đất Nước đã có từ lâu đời; Đất Nước có từ trước khi những câu chuyện cổ ra đời và hiện hữu ngay trong những câu chuyện cổ tích mà em đã thuộc nằm lòng. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn nhân hậu, bao dung của con người nước Việt. Thật đáng trân trọng biết bao !

Đất Nước cũng có những ngày đầu phát triển bình dị và tự nhiên như « miếng trầu bây giờ bà ăn »- một miếng trầu nhỏ bé đơn sơ thôi nhưng gọi về cả nền văn hóa bốn nghìn năm của lịch sử dân tộc. Miếng trầu là hiện thân của lịch sử, hiện thân của những giá trị văn hóa đẹp đẽ còn tồn tại đến ngày nay. Đó là minh chứng cho tục ăn trầu từ nghìn đời “ miếng trầu là đầu câu chuyện” “Miếng trầu nên dâu nhà người”, là minh chứng cho tấm lòng thủy chung son sắt, trọng tình trọng nghĩa của hai anh em họ Cao và nàng Lưu thị trong “ Sự tích trầu cau”. Quả thật, chỉ một hình ảnh giản dị là thế mà sức gợi vô cùng!

Cách dùng từ giản đơn “Đất Nước lớn lên” khiến ta có cảm giác Đất Nước như một cơ thể sống, được nuôi dưỡng bằng nền văn hóa phong phú đẹp đẽ, nhưng cũng trải qua bao thử thách : "Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo/ Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn" (Nguyễn Việt Chiến). Và Đất Nước ấy vẫn lớn lên theo kinh nghiệm trồng tre mà đánh giặc, chủ động, cảnh giác trước quân thù. Cách nói gợi liên tưởng sâu sắc đến chiều dài lịch sử giữ nước của dân tộc, nhắc người em nhớ đến truyền thống đánh giặc của quê hương với hình ảnh vị Phù Đổng Thiên vương nhổ tre làm vũ khí quét sạch bóng quân thù. Rồi Tre mọc bạt ngàn trên khắp quê hương như thành như lũy vây chắn bước chân giặc ngoại xâm. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Hình ảnh thân thương mà thể hiện ý chí bền gan, bất khuất ấy đã trường tồn cùng Đất Nước từ thủa sơ khai đã chạm đến trái tim của người em, làm sống dậy một lòng yêu nước và tự hào về truyền thống văn hóa, truyền thống đánh giặc của quê hương.

Ai đó đã từng nói “Quê hương là nơi chân ta có thể rời đi nhưng tim ta vẫn mãi ở đó”. Thật vậy, bởi đó là mảnh đất êm dịu dung dưỡng tâm hồn ta, nhắc ta nhớ về nguồn cội, giống nòi. Ở đó có mẹ cha ta, có những kỉ niệm tuổi thơ ta ngọt ngào, sâu lắng :

“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên”

Còn gì thân thiết hơn, cảm xúc hơn hình ảnh người mẹ trong tim ta. Nét đẹp bình dị chân quê, không phấn son điểm trang, không trau chuốt lụa là, mà chỉ đơn giản trong chiếc áo bà ba đã ngả màu, ống quần luôn xắn lên cao, còn mái tóc lúc nào cũng búi lên gọn gàng sau đầu khi làm việc... hình ảnh đó dẫu đơn sơ nhưng lại trở thành biểu tượng văn hóa Việt, nét đẹp Việt, khiến lòng ta ngập tràn thương mến.

Nét đằm thắm dịu dàng cùng tấm lòng thủy chung son sắt trong nghĩa vợ tình chồng đã làm nên vẻ đẹp rất riêng của người phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo tôn lên vẻ đẹp ấy chỉ với vài nét chấm phá, chọn lọc tinh tường bằng một giọng thơ vừa khẳng định đinh ninh, vừa tự hào sâu sắc. Câu thơ cũng đưa ta về miền văn hóa Kinh Bắc xưa với những câu ca đậm tình đậm nghĩa như thế :

“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Hay:

“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”

Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy.

Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục dựng nhà của người Việt xưa. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Cái kèo, cái cột bởi thế cũng trở thành quen thuộc, gắn bó với mỗi thành viên trong gia đình, thậm chí, nó còn trở thành những cái tên mộc mạc, giản đơn đi suốt cuộc đời một con người.

Không chỉ đằm thắm thủy chung trong tình cảm gia đình, người dân ta cũng còn mang những vẻ đẹp tuyệt vời trong lao động, tăng gia sản xuất :

“Hạt gạo cũng phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng…”

Câu thơ sử dụng hàng loạt các động từ chỉ hoạt động lao động làm ra hạt lúa của người nông dân « xay, giã, dần, sàng », kết hợp với thành ngữ « một nắng hai sương » đã làm nổi bật sự sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày đầu của nền văn minh lúa nước, khi nông nghiệp còn lạc hậu, nghèo nàn. “Cày đồng đang buổi ban trưa/Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày/ Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.

“Đất Nước bốn ngàn năm/ Vất vả và gian lao” đã hiện hữu trong thơ Nguyễn Khoa Điềm thật giản dị, dễ hiểu. Khép lại dòng cảm hứng lí giải Đất Nước có từ bao giờ là một câu khẳng định thật tự nhiên :

“Đất Nước có từ ngày đó…”.

“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày bắt đầu của những truyền thống, phong tục tập quán, ngày bắt đầu của nền văn hiến, ngày bắt đầu của những truyền thống, đạo lí mang bản sắc quê hương….Câu thơ ngắn gọn, kết đọng dòng cảm xúc đang tuôn chảy theo chiều dài lịch sử, găm vào lòng người đọc biết bao suy tưởng !

Trong 9 câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng một cách linh hoạt, độc đáo chất liệu dân gian: ca dao dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích… không chỉ tạo cảm giác gần gũi quen thuộc mà còn biểu hiện ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Từ “Đất Nước” được viết hoa và lặp lại 5 lần thể hiện sự thành kính, nâng niu, trân trọng của nhà thơ. Với câu từ giản dị, đời thường, không có một từ pha tạp, vay mượn, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên những vần thơ tự do dạt dào cảm xúc, kết hợp với chất giọng thủ thỉ tâm tình như một điệu ru dễ đi vào lòng người. Nhưng chuyển tải mạch cảm xúc ấy là một lối lập luận chặt chẽ: tổng - phân - hợp. Chính sự kết hợp hài hoà giữa chính luận và trữ tình, giữa trí tuệ và cảm xúc bay bổng đã làm nên nét riêng trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm giữa rừng thơ Đất Nước.

Tóm lại, qua những dòng thơ trăn trở và suy tư về một khái niệm tưởng chừng như đã ăn sâu vào máu thịt mỗi người dân Việt, qua chiều sâu văn hóa, sinh hoạt Nguyễn Khoa Điềm đã có một phát hiện mới mẻ, độc đáo, một cảm nhận vô cùng sâu sắc: Đất Nước hiện lên trong thế giới tinh thần của cộng đồng người Việt, trong cuộc sống sinh hoạt từ bao đời. Đất Nước hiện lên gắn liền với những phong tục tập quán với lối sống, nếp nghĩ, qua kho tàng văn học dân gian, qua bản sắc văn hoá... Đó là một Đất Nước không trừu tượng mà cụ thể, chứa đựng mơ ước, khát vọng, quan niệm về vẻ đẹp phẩm chất của tâm hồn dân tộc. Gương mặt Đất Nước hiện lên thật sống động, lung linh: trong cuộc sống, trong lao động và trong chiến đấu.. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.


Bài mẫu 2

Đất nước là một trong những đề tài muôn thuở gắn với sự thành công của nhiều cây bút trong các thời kỳ, nhất là thời kì kháng chiến. Ta không sao quên được hình ảnh đất nước hóa thân vào trong “mảnh hồn quê Kinh Bắc”, đất nước đã bị dày xéo dưới chân của bọn giặc ngoại xâm trong khung cảnh thơ của Hoàng Cầm hay hình ảnh một đất nước nhỏ bé, với đau thương mà anh hùng, bất khuất “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” trong thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi. Đến với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, lại có khám phá mới về đất nước của ca dao, thần thoại khi đoạn trích Đất nước nằm trong chương năm của bản trường ca Mặt đường khát vọng. Với hình tượng trung tâm là đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cho độc giả thấy được nhiều những tư tưởng mới mẻ của mình trong hành trình lí giải về cội nguồn mà đất nước mà đặc biệt là trong chín câu thơ đầu bài:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nới lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…

Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, hình tượng đất nước luôn có một vị trí đặc biệt, là hình tượng cao quý, với ẹp đẽ nhất trong thơ văn. Macxen Prust: “Một cuộc thám hiểm không phải là ở chỗ cần một vùng đất mới mà ở chỗ cần một đôi mắt mới”. Bởi thế mà cũng với mỗi một điểm nhìn khác nhau thì đất nước lại có một vẻ đẹp, hình dáng khác, hiện lên đất nước hiện lên với muôn hình vạn trạng trong con mắt nhà thơ. Nếu như các nhà thơ cùng thời chọn điểm nhìn cùng cảm hứng về đất nước từ lịch sử đã thông qua các triều đại như:

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng

Hay những hình ảnh vô cùng mỹ lệ, đẹp đẽ:

Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca

Thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn cho bản thân mình một điểm nhìn vô cùng mới mẻ, bình dị, thân quen mà qua đó đất nước cũng đã hiện lên không kém phần tươi đẹp.

Với cấu trúc tổng phân hợp mang đậm phong cách chính luận, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy tư cùng với những cảm xúc mãnh liệt về đất nước và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương và tổ quốc.

Mở đầu bài thơ, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đưa ta vào câu chuyện về sự hình thành của Đất nước mà cũng đã theo đó Đất nước có từ những gì quen thuộc, gần gũi nhất.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Câu thơ được mở đầu tự nhiên như một lời kể, nhà thơ mượn kí ức tuổi thơ để hình dung ra sự tồn tại của chính Đất nước trong nhận thức với chính tình cảm con người. Theo đó, “Đất Nước đã có từ rất lâu, từ khi mà “ta” cất lên tiếng khóc chào đời, lớn lên thì đất nước đã có và tồn tại cùng với chính “ta”. “Ta” ở đây phải chăng là anh, là chị, là những con người còn sống hay đã chết, là ta của quá khứ hay của tương lai, là cái chung của người dân tộc. Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” vang lên đầy tự hào, khi nó giống như một lời khẳng định về nhiều sự trường tồn của đất nước qua hàng ngàn năm lịch sử đã dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đã được Nguyễn Trãi đã nhắc đến:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Đến hai câu tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả cụ thể sự hình thành của Đất nước:

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Truy tìm về nơi cội nguồn của đất nước, khó có ai có thể xác định rõ ràng, minh bạch về sự khởi thuỷ của những hình tượng này. Với Nguyễn Khoa Điềm thì Đất nước cũng được hình thành từ những nét sống giản dị nhất của người mẹ và chính người bà. Sau trạng từ chỉ thời gian”ngày xửa ngày xưa”, khiến người đọc đã hình dung ra biết bao kỉ niệm về tuổi thơ cùng với những nhân vật như ông bụt, bà tiên, cô Tấm, Thánh Gióng… Từ những câu chuyện đó với hình ảnh Đất nước hiện lên thật đẹp đẽ, thơ mộng. Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi cho mỗi người đọc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc khi hình ảnh “miếng trầu” gắn liền với nét đẹp của những người phụ nữ Việt xưa. Từ nét đẹp đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải về sự “bắt đầu” của Đất nước. Trong cúng lễ, “miếng trầu quả cau” với biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến khi những bậc cha ông. “Miếng trầu” còn là biểu tượng của phẩm của sự chất thuỷ chung trong cốt cách con người Việt Nam xưa và nay và bên cạnh đó, hình ảnh “miếng trầu”còn gợi lên một huyền sử của tình yêu”miếng trầu nên dâu nhà người”. Từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành với khi của đất nước qua quá trình đấu tranh khiến dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với Nguyễn Khoa Điềm hay bất kì những nhà thơ nào, đất nước không hề vô tri vô giác mà đất nước có dáng, có hồn, vẻ đẹp ngất ngây trong con mắt nghệ thuật. Hình ảnh “trồng tre mà đánh giặc” với sự gợi cho ta về truyền thuyết một cậu bé mới ba tuổi đã biết cất tiếng khi nói trách nhiệm với quê hương, cho chính tổ quốc đó là Thánh Gióng, một biểu tượng cho cốt cách con người Việt, kiên cường, đúng nên mạnh mẽ trong đấu tranh chống lại cái ác. Hình tượng đó đã được nhà thơ Tố Hữu đưa vào thơ của mình:

Ta thuở xưa như thần Phù Đổng
Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.

Hình ảnh cây tre đại diện cho cốt cách ngay thẳng không chịu bất khuất của con người Việt Nam:

Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi.

Nguyễn Khoa Điềm cũng đã đem hình tượng cây tre và Thánh Gióng song hành với nhau. Đó là sự đồng hiện trong cốt cách, một phẩm chất của con người Việt Nam như thật thà, chất phát, đôn hậu thuỷ chung, khi yêu hoà bình nhưng lại vô cùng kiên cường trong chiến đấu.

Đến bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ca ngợi những truyền thống, vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của chính con người Việt:

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Có phải chăng hình tượng của người mẹ và người phụ nữ với búi tóc sau đầu đã làm sáng tỏ sự kín đáo, rất nhẹ nhàng mà chân chất trong cách ăn mặc của con người Việt Nam. Nét đẹp của những người phụ nữ ấy khiến ta liên tưởng đến câu thơ:

Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh

Vẻ đẹp của con người Việt còn ở khi chính phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách của mình. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng sự vô cùng độc đáo, nhẹ nhàng mà thấm đẫm với câu thơ. Gừng thì tất nhiên phải cay, cả muối tất nhiên phải mặn, đó là nguyên lý của chính tạo hoá cũng như tình cảm của những người vợ chồng luôn đong đầy và với sự không lay chuyển. Nó gợi lên ân tình thuỷ chung giữa người với người là:“Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn.” con người ở với nhau càng lâu thì sẽ càng tình cảm càng đong đầy. Ý câu thơ được lấy ra từ chính câu ca dao:

Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

“Cái kèo, cái cột thành tên” gợi lên cho ta nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt xưa. Ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình đoàn tụ, mang đến những sự ấm áp, hạnh phúc.. Có lẽ bởi vậy mà tục đặt tên cho con là “kèo”, là “cột” ra đời, khi vừa giản dị lại gần gũi và cũng tránh được sự dòm ngó của ma quỷ theo quan niệm xưa.

Không những vậy, khi con người Việt Nam còn mang trong mình phẩm chất cần cù, chăm chỉ. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ những sự chịu thương chịu khó của ông cha ta trong lao động. Các động từ “xay”, “giã” và “dần”, “sàng” là các công đoạn làm ra hạt gạo, qua đó tác giả Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc người đọc cần phải biết trân trọng những hạt cơm ta đã ăn hằng ngày vì đó là vào mồ hôi công sức của những người nông dân:

Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần

Câu thơ cuối cùng chính là một lời khẳng định của Nguyễn Khoa Điềm về cội nguồn của Đất nước:

Đất Nước có từ ngày đó…

“Ngày đó” là cái ngày mà ta có truyền thống, đã có văn hoá. Vậy nên, muốn yêu nước thì trước hết ta phải yêu văn hoá, với truyền thống của dân tộc mình. Thật đáng trân quý, nâng niu biết bao lời thơ dung dị, sự nhẹ nhàng mà chân thành, đằm thắm của Nguyễn Khoa Điềm.

Thành công của đoạn thơ với sự trên là nhờ vào việc vận dụng đặc sắc, khéo léo các thi liệu dân gian, cùng những phong tục, truyền thống, thành ngữ, điệp từ và cách viết hoa chữ Đất nước để thể hiện sự thành kính, thiêng liêng. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm chất với nền văn hoá người Việt và sự thành kính đối với đất nước. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, cả những lời thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lý.

Đoạn trích trên cũng đã thể hiện được những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt của tác giả về quê hương và đất nước. Qua đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc cùng Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là những niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và phải chăng tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy riêng con đường của mình khi tiến đến đất nước, để rồi khi Đất nước hiện ra thật bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá chính một vẻ đẹp mới của đất nước mà qua đó bản thân ta nâng cao thêm tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của chúng ta bây giờ không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, gìn giữ đất nước, và góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.


Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Nói về Đất Nước và nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có ý kiến cho rằng: “Trong đoạn thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng thể hiện hình ảnh Đất Nước gần gũi, giản dị. Đó là cách để đi vào lòng người, cũng là cách nhà thơ đi con đường riêng của mình không lặp lại người khác”. Hình ảnh Đất Nước để mà miêu tả sao cho trọn vẹn thì thật khó để dùng lời lẽ, từ ngữ nhưng bằng chất liệu dân gian giàu cảm xúc, chân thật nhà thơ đã nhẹ nhàng truyền tải đến mọi người một cách hay nhất. Và ở ngay chín câu thơ đầu bài thơ Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa chúng ta lái ngược thời gian quay về những tháng năm lịch sử hào hùng, đi tìm câu trả lời Đất Nước có từ bao giờ?

Tình yêu Tổ Quốc chưa bao giờ dừng lại, nó trỗi dậy mãnh liệt trong trái tim mỗi chúng ta, với các thi nhân thì tình yêu này là cảm hứng giúp họ có những sáng tác cả riêng mình. Ở Nguyễn Khoa Điềm ta chỉ thấy một nhà thơ giản dị trong câu chữ từ những bài ca dào thần thoại, dân gian nhưng đã đi sâu vào lòng người, chạm đến trái tim người đọc. Ngay từ những dòng đầu tiên, bình dị tác giả muốn tìm hiểu thời gian tồn tại của đất nước.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những “cái ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhanh bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”

Đất Nước nằm trong trái tim mỗi con người, dù đi xa, đi đến đâu thì những giá trị tồn tại chẳng bao giờ mang đến cảm giác xa lạ ngược lại nó đã trở thành một nguồn gắn kết bền vững, tha thiết. Qua bao thế hệ, Đất Nước lại càng vững bền hơn qua sự dựng xây, bồi đắp của chính những con người Đất Việt.  Khi đứng trước Đất Nước thiêng liêng nhà thơ thể hiện cảm xúc dào dạt, trái tim rung động đầy thành kính. “Đất Nước” được viết hoa và lặp lại nhiều trong từng dòng thơ đến hết bài chính là dụng ý của nhà thơ cho thấy sự trang trọng, niềm tự hào lớn lao dành cho nguồn cội của mình. Nhà thơ hay chính chúng ta cũng chẳng ai biết chính xác là Đất Nước có từ bao giờ, chỉ biết rằng khi ta sinh ra, lớn lên Đất Nước đã có rồi. Nguyễn Khoa Điềm đi tìm câu trả lời Đất Nước có từ khi nào thì ông chợt suy ngẫm và nhớ về những điều ngày xửa ngày xưa, đó là: trong những câu truyện khi xưa mẹ thường kể, trong từng miếng trầu quen thuộc bà hay ăn đã có hình bóng của Đất Nước. Hình ảnh hiện về luôn giản dị, mộc mạc đến thế để nói về Đất Nước thiêng liêng, lớn lao thì chỉ có Nguyễn Khoa Điềm mới tài tình trong cách miêu tả như thế.Năm tháng cổ xưa, ca dao tục ngữ kết tinh trong mỗi tâm hồn Việt luôn có Đất Nước đi cùng. Và hơn nữa qua những năm tháng chiến tranh đau thương, Đất Nước cũng đồng hành cùng con người “lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Tình yêu thương, lòng thủy chung son sắt của người dân đất Việt, dân tộc Lạc Hồng luôn được Đât Nước mang theo cùng dù ở bất cứ đâu, thời điểm nào.

Nếu như nhà thơ gắn Đất Nước trong hình ảnh miếng trầu bà ăn thì không quên những phong tục khác như : “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, “cái kèo cái cột thành tên”.  Chắc sẽ chẳng nhà thơ nào đi tìm về những điều xưa cũ mà chân phương như thế này, riêng Nguyễn Khoa Điềm thì khác, ông tỉ mỉ cho người đọc thấy được một Đất Nước của nhân dân nghìn năm hùng vĩ. Nào là búi tóc sau đầu của mẹ, từng cái kèo cái cột trầy trước theo thời gian in hằn tên dựng nên tổ ấm cho gia đình. Tác giả không quên công ơn, nhìn vào nỗi vất vả một nắng hai sương, tần tảo sớm hôm để mang lại hạt gạo trắng tinh tuơm cho bữa con thơm ngon. Đất Nước, một phần thân thương mà nhà thơ nghĩ về.

Dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không đem đến cho người đọc những cái nhìn kì vĩ, cao xa mà là những triết lí, hình ảnh quen thuộc, bình dị trong từng lời văn nhưng lại có sức thuyết phục rất cao. Chín câu thơ đầu cũng như bài thơ Đất Nước chạm đến trái tim người đọc nhẹ nhàng, sâu lắng, thật nhất nhờ chính tài năng và cái tâm, tầm nhìn của nhà thơ.

Các bài viết liên quan:

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 18/04/2024