logo

Phân tích 2 khổ thơ cuối bài thơ Ông đồ

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích 2 khổ thơ cuối bài thơ Ông đồ. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! 


Phân tích 2 khổ thơ cuối bài thơ Ông đồ - Bài mẫu 1

Phân tích 2 khổ thơ cuối bài thơ Ông đồ (ngắn gọn, hay nhất)

     Vũ Đình Liên là một nhà thơ cũ trong phong trào thơ Mới, ông là một nhà thơ khá đặc biệt, người ta thường tìm thấy bút pháp của một nhà thơ, nhà văn qua các tác phẩm thì với ông chỉ có một tác phẩm để đời. “ Ông đồ” là sự xuất hiện không trở lại của một thơ trên thi đàn, và đây là những hình ảnh không hề lặp lại trong văn học:

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

     Bài thơ “Ông đồ” sáng tác năm 1936, đăng trên báo Tinh hoa. Tác giả Anh Ngọc trong bài viết “Hồn thơ thế kỷ” có nhận định: ấn tượng đầu tiên là bài thơ hoàn toàn mang dáng vẻ tự nhiên, không một dấu vết sắp xếp, bày đặt. Nó giống như một bức tranh, một đoạn phim ghi nhanh mà tác giả bất ngờ chớp được trên đường phố”. Bài thơ cũng như đang kể một câu chuyện về văn hóa xuất hiện rồi mất đi khi lòng yêu mến của con người thay đổi. Văn hóa phụ thuộc vào thị hiếu, khi nó không còn phù hợp thì sẽ bị đoà thải dần dần rồi cuối cùng chỉ còn lại chút kí ức, hay được ghi lại bởi trái tim nghệ sĩ như Vũ Đình Liên. Nếu như phần đầu bài thơ là sự phấn khởi, vui vẻ khi thấy: “Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay”, để rồi không khí tấp nập hiện lên trên trang giấy của nhà thơ: “Bao nhiêu người thuê viết/ tấm tắc ngợi khen tài”. Một cao trào kết thúc bằng tâm thế trùng xuống hay lòng yêu văn hóa viết chữ Nho không còn: “giấy đỏ buồn không thấm/ Mực đọng trong nghiên sầu”. Nhà thơ đã dành những tình cảm xuất phát từ chính trái tim ông để tiếc thương cho một kiếp người, một thời đại, một nền văn hóa đã in dấu mấy nghìn năm đang chết từ từ rồi đến lúc không cứu vãn được nữa. 

     Hai khổ thơ cuối nhẹ nhàng nhưng lại chất chứa nỗi xót xa cho con người đầy tài năng, một thời gian dài đã đem lại văn hóa, ghi dấu ấn của văn hóa bằng chữ viết, là niềm vui của mọi người khi có được nét chữ của ông vào ngày Tết. Nhưng bây giờ con người ấy lại thầm lặng vô cùng: “Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay”. “Vẫn” là một từ dùng để chỉ sự lặp lại không thay đổi, một con người gắn bó với nền văn hóa, muốn bảo tồn văn hóa, nhưng hiện tại ông đang bị đẩy đến sự cô đơn “không ai hay”, con người đã hờ hững thực sự. đã không còn để tâm đến người từng mang lại cho họ những trầm trồ, ngợi ca, sự thán phục nữa. Ý thích của con người thực sự đã thay đổi theo thời cuộc. Con người mới không còn quyến luyến chữ nghĩa kia. Ông đồ thực sự đã rơi vào tình cảnh của một nghệ sĩ không còn duyên với công chúng, giống như một cô gái đẹp không còn duyên nữa: Còn duyên kẻ đón người đưa/ Hết duyên đi sớm về trưa một mình”. 

     Hình ảnh “Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài đường mưa bụi bay” là những hình ảnh cuối cùng vương vấn cho nghề viết chữ của ông đồ, giấy, mực hiện tại không còn chút liên hệ nào với nhau, tất cả đang im lìm, mặc kệ sự đưa đẩy của không gian, thời cuộc, mặc kệ sự cô đơn, lạnh lẽo nơi ông đồ. “Mưa bụi bay” giống như hình ảnh của một con người đang cố bám lấy xã hội hiện đại nhưng rơi vào mỏng manh, chới với. 

     Khổ cuối bài thơ là sự lặp lại hình ảnh: ông đồ và hoa đào, nhưng hình ảnh ông đồ đã mở rộng theo không gian và trở nên khó nắm bắt:

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

     Đến nay đào lại nở như quy luật tàn lụi của nó, nhưng khác với đào nở vào Tết năm xưa, không còn ông đồ nào làm nên cái dáng vẻ ngày xuân ấy nữa, sự cô đơn đến thê thảm của ông cũng không hề xuất hiện, sự đào thải của con người đã vô tình đào thải một con người, một thời đại, một nền văn hóa. Từ “Không thấy” xuất hiện nhẹ nhàng nhưng lại mang sức nặng của sự mất mát. Con người ấy không xuất hiện đồng thời những vẻ đẹp văn hóa mà ông mang lại đã hoàn toàn bị mất đi. Tất cả chỉ còn lại bằng một câu hỏi xuất phát từ chính nỗi cảm, nỗi tiếc, nỗi xót xa, từ đáy lòng của một nghệ sĩ đã theo dõi sự đổi thay ấy: Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ? Câu hỏi biểu hiện sự níu kéo, chỉ có thị hiếu mới có thể níu kéo lại được văn hóa đẹp đẽ ấy, nhưng không tìm ra được sự trân trọng của họ trong thời điểm hiện tại, đồng thời tác giả cũng rơi vào trạng thái cô đơn, cô đơn trong nuối tiếc, cô đơn trong việc tìm lại văn hóa xưa…

     Bài thơ kết thúc trong câu hỏi, trong sự hoài nghi, sự dằn vặt nơi tác giả. Tính chất đa thanh trong hai khổ cuối khiến lời thơ dứt nhưng dư ba của nó còn ngập tràn. Ông đồ cũng như văn hóa mà ông mang lại thực sự đã không còn nhưng Vũ Đình Liên là người ghi lại thời điểm ấy. Ông đồ viết lên trang giấy nét tinh hoa thì Vũ Đình Liên viết lên trang giấy những tình cảm của một nghệ sĩ về một nền văn hóa lụi tàn để nhắc nhở người ta nhớ đến, và phải chăng, đó cũng là một sự níu kéo cho một nền văn hóa?


Phân tích 2 khổ thơ cuối bài thơ Ông đồ - Bài mẫu 2

     Vũ Đình Liên là một nhà giáo,nhà phê bình văn học và dịch thuật,bên cạnh đó ông còn là một nhà thơ. Ông sáng tác không nhiều và những sáng tác của ông đều mang một niềm hoài cổ về lũy tre,về thành cổ và về những người “muôn năm cũ”. Trong số đó bài thơ “Ông đồ” được đánh giá là bài thơ tiêu biểu nhất của ông,bài thơ đưa Vũ Đình Liên thành người mở đường và góp phần thành công trong phong trào thơ mới. Hai khổ cuối là hai khổ thơ tiêu biểu nhất trong bài thơ Ông đồ. Hai khổ thơ này nói lên một nét đẹp truyền thống của dân tộc dường như đã bị lãng quên. 

     Ngày tết đến trong mỗi gia đình người Việt chúng ta đều không thể thiếu những món ăn cổ truyền mang hương vị dân tộc mà môi khi nhắc đến nó ta sẽ cảm nhận ngay ngày tết đang dần về trên mỗi con phố nẻo đường tràn ngập dòng người nô nức đi mua sắm để chuẩn bị những thứ không thể thiếu:

“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ

Cây nêu tràng pháo bánh trưng xanh”

     Đặc biệt là câu đối đỏ là thứ mà dường như trong mỗi gia đình đêu không thể thiếu trong mỗi ngày tết. Câu đối đỏ là một thú chơi tao nhã của người dân Việt Nam đặc biệt là người dân Hà thành trong mỗi dịp tết. Hình ảnh ông đồ già với những khổ giấy tròn ngang đủ loại cùng những nghiêng mực ngồi bên các con phố đông đúc như là một đặc trưng không thể thiếu của ngày tết trong thế kỷ mười chín. Nếu như trước đây hình ảnh ông đồ xuất hiện như một đặc trưng trong ngày tết như các khổ thơ đầu nhà thơ Vũ Đình Liên đã nhắc đền thì hai khổ thơ cuối lại là một khung cảnh thê lương đến sầu não: 

“Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay”

     Đọc đến đây ta cảm thấy tình cảnh đáng thương của ông đồ. Theo tín hiệu của hao đào nở ông đồ vẫn ngồi đấy bày mực tàu giấy đỏ trên những con phố đông đúc người qua lại sắm tết. Nhưng trái lại là cảnh người thờ ơ hờ hững đi qua không ai hay ông đồ vẫn ngồi đó,mọi thứ vẫn như xưa nhưng dương như một phong tục tốt đẹp của người dân Việt Nam đã bị lãng quên ngay trên đường phố mà không ai hay biết. Thảm cảnh thê lương ngồi hóa đá của ông đồ khiến chúng ta thấy nhói lòng. Chẳng còn nữa cảnh mọi người nô nức đi xin chữ,háo hức chờ đợi đến lượt mình mà hiện tại phũ phàng khiến cả tác giả và chúng ta đứng lặng người trước khung cảnh chẳng như xưa. Hai câu thơ:

“Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụị bay”

“lá vàng rơi”gợi không khí u buồn ảm đạm hiu quạnh,sự tàn phai rơi rụng. Không những thế lá vàng lại còn rơi trên giấy,ông đồ không buồn nhặt mà cứ để nó rơi hoài dường như phủ đi cả giấy lẫn hình ảnh ông đồ vào quên lãng. Đọc đến đây thôi ta cũng cảm thấy tâm trang buồn tan nát của ông đồ,một thời huy hoàng nay còn đâu. Ta để ý rằng ở đây mùa xuân nhưng vẫn có những chiếc lá vàng rơi lả tả trên trang giấy. Lá vàng gợi ta liên tưởng tới mùa đông,tại sao có hình ảnh lá vàng rơi trong mùa xuân đang tràn ngập ấm ám. Phải chằng hình ảnh ông đồ chính là chiếc lá vàng kia vẫn đang cố níu giữ thời gian đã qua?Nhưng rồi lá cũng rơi và ông đồ thì không ai hay. Ở đây là mùa xuân vậy mà mưa không”phơi phới bay”,ông đồ gầy gò ốm yếu dường như cũng bị vùi lấp nhạt nhòa dần trong làn mưa. Mưa dường như cũng khóc thương cho tình cảnh éo le tội nghiệp của ông đồ. Hai câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc đã diễn tả hình ảnh éo le xuất hiên mỗi lúc một mờ dần và đến khổ thơ cuối cùng thì không còn nữa: 

“Năm nay hoa đào nở

Không thấy ông đồ xưa”

     Một mùa xuân nữa lại bắt đầu,hoa đào lại tiếp tục nở rộ nhưng ông đồ đã không còn xuất hiện trên mỗi con phố nữa. Đến đây ta cảm thấy không khí tết tiếp tục tràn trề lan tỏa khắp moi nơi nhưng sao ta cảm thấy không khí này thật thiếu vắng mất mát. Ở đây ngôn ngữ đã được chuyển đổi một cách tinh tế,ở trên là “ông đồ” thì đến đây chỉ còn là “ông đồ xưa”biến nhân vật vĩnh viễn thành nhân vật một đi không trở lại. Chính những người trước đây luôn tìm đến ông trong mỗi dịp tết thì giờ đây đã không còn chấp nhận ông khiến ông “lỡ hẹn hoa đào”. Trên cái nền của thiên nhiên đã trực tiếp thể hiện tâm trạng con người,khiến người đọc cảm thấy xót thương cảm thông cho một lố người tài hoa đã bị lãng quên,giờ đây chỉ còn lại trong miền kí ức. Bài thơ khép lại bằng tiếng gọi hồn thương xót:

“Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ ”

     Mọi vật vẫn như cũ đào vẫn nở,phố xá vẫn nhộn nhịp nhưng giờ đây mọi vật đã hoàn toàn thay đổi,mọi người không còn vây quanh ông đồ thuê viết đồng nghĩa với việc chơi câu đối đã đần bị thay đổi,mai một. Trước sự thờ ơ của mọi người ông đồ buồn,nỗi buồn lan sang cả cảnh vật vô tri vô rác để rồi chạm vào lòng người đọc. Những người muôn năm cũ phải chăng là ông đồ,là những người đã thuê ông viết chữ hay là một thời đã qua nay chỉ còn là quá khứ. Tác giả như bàng hoàng xót xa trước sự lãng quên của người đời. Câu hỏi vang lên như là niềm xót thương trước sự biến mất của một nền văn hóa nho học,đồng thời tiếc thương cho môt lớp người trong xã hội đã bị thất thế. Nhà thơ không chỉ thể hiện sự luyến tiếc mà còn là sự thức tỉnh mọi người hãy giữ lại những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đừng để nó phai nhạt theo thời giản rồi không còn nữa. 

     Ngày nay cuộc sống đã không ngừng phát triển nhưng thật vui khi mỗi dịp tết đến xuân về hay trong những hội chợ triển lãm đôi khi ta bắt gặp những bạn trẻ trong trang phục ông đồ xưa đang viết trên trang giấy đỏ những dòng chữ rồng bay phượng múa khiến ta nhớ lại một hình ảnh nô nức đã qua. Họ đang cố gắng giữ lại những phong tục tốt đẹp đã bị mai một. Chúng ta hãy cùng hy vọng phong tục này sẽ một lần nữa hồi sinh và ngày càng phát triển đi lên.

     Với thể thơ ngũ ngôn và từ ngữ gợi cảm giàu sức tạo hình có nghệ thuật cao phù hợp phù hợp diễn tả tâm tình sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ như một câu chuyện về ông đồ. Qua đó tác giả bày tỏ sự luyến tiếc cho một nét đẹp đã bị phai tàn và nhắn nhủ tới người đọc hãy biết trân trong những phong tục tốt đẹp đang còn tồn tại vì nó thể hiện một cốt cách con người Việt Nam.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích 2 khổ thơ cuối bài thơ Ông đồ do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

icon-date
Xuất bản : 22/03/2021 - Cập nhật : 22/03/2021