Đáp án cho câu hỏi Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam chính xác, dễ hiểu nhất.
Câu hỏi: Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam
Trả lời:
* Thân thế, sự nghiệp của Phật Thích Ca
Phật giáo là một trào lưu triết học xuất hiện vào thế kỉ VI – TCN. Người sáng lập Phật giáo là thái tử Tất Đạt Đa, họ Gôtama. Phật sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 TCN, nhưng theo truyền thống Phật lịch là ngày rằm tháng tư (15/4) gọi là ngày Phật Đản. Ông là con vua Tịnh Phạn, trị vì một xứ nhỏ ở trung lưu song Hằng là Ca tỳ la vệ. Cuộc sống nơi cung đình đã tạo cơ hội cho ông chăm lo việc học hành, lễ bái, yến tiệc và giải trí. Vì vậy, ông không hay biết những gì đen tối, cực nhọc, nỗi bất hạnh diễn ra ngoài xã hội. Năm 17 tuổi, ông cưới vợ và sinh được một người con trai đặt tên là La Hầu La. Sau bốn lần trực tiếp ra ngoài thành và tận mắt chứng kiến nỗi khổ của kiếp người, ông quyết noi theo các đạo sĩ tu theo lối sống khổ hạnh.
Năm 29 tuổi, ông bỏ nhà ra đi để trở thành một ẩn sĩ. Sau 6 năm tu khổ hạnh, ông chợt nhận thấy rằng, lối tu đó cũng không giải thoát con người khỏi nỗi đau sinh, lão, bệnh, tử. Theo ông, tu khổ hạnh hay chủ trương khoái lạc cũng đều là những cực đoan phi lý như nhau. Bằng sự kiên trì và nhạy cảm trí tuệ, cuối cùng ông đã phát hiện ra con đường “trung đạo”, một con đường có thể dẫn con người đến sự giải thoát. Bằng lối tu đó, sau 49 ngày chìm đắm trong những tư duy sâu thẳm, ông tuyên bố đã đạt đến chân lí, đã hiểu được bản chất sự tồn tại của nhân sinh, Từ đó, ông được gọi là Thích Ca Mâu Ni – tức người giác ngộ chân lí đầu tiên có họ là Thích Ca. Ông bắt đầu sự nghiệp hoằng hóa của mình, thu nạp đệ tử, thành lập các tang đoàn Phật giáo. Vào năm 483 TCN, ông tạ thế.
Xét về mặt triết học, Phật giáo được coi là triết lí thăng trầm về vũ trụ và con người. Với mục đích giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống đức độ của con người. Phật giáo đã nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động. Nó trở thành biểu tượng của lòng từ bi bát ái trong đạo đức truyền thống của các dân tộc châu Á.
Kinh điển của Phật giáo rất đồ sộ, bao gồm 3 bộ phận gọi là Tam tạng kinh, đó là: Tạng kinh (ghi lại những lời dạy của Phật Thích Ca, Tạng luật (những điều quy định mà giáo đoàn Phật giáo phải tuân theo), Tạng luận (các tác phẩm luận giải về Phật giáo của các học giả cao tăng về sau).
* Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung của 3 phạm trù là: vô ngã, vô thường và duyên.
- Quan điểm “vô ngã” (không có cái “ta”, cái “tôi” chân thực): Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị thần sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố vật chất và tinh thần. Vật chất gọi là “sắc”, là cái có thể cảm giác được, nó bao gồm đất, nước, lửa, không khí. Tinh thần là “danh”, không có hình chất mà chỉ có tên gọi, bao gồm thụ (cảm thụ), tưởng (sự suy nghĩ, tư tưởng), hành (ý muốn thúc đẩy hành động), thức (sự nhận thức). Chính cái “danh” và cái “sắc” đó kết hợp với nhau tạo thành “ngũ uẩn”. Ngũ uẩn tác động qua lại tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó, không có cái “bản ngã” hay cái tôi chân thực.
- Quan điểm “vô thường” (vận động biến đổi không ngừng): qua điểm này cho rằng thế giới là dòng biến đổi không ngừng, không nghỉ theo chu trình bất tận: sinh, trụ, dị, diệt.
- Quan điểm “duyên” (điều kiện giúp nguyên nhân thành kết quả): Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ, từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó, duyên là điều kiện giúp nguyên nhân thành kết quả, kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành nguyên nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành kết quả mới, cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật. Ví dụ: Hạt lúa là nguyên nhân, nhờ có duyên (đất, nước, ánh sáng, nhiệt độ, …) mà có kết quả là cây lúa. Trong thực tế, quá trình nhân – quả là vô tận. Quá trình trước là cơ sở, nguyên nhân cho quá trình sau. Ví dụ: Tốt nghiệp lớp 12 là kết quả của 12 năm học tập, đồng thời là nguyên nhân cho vào đại học. Tuy nhiên, tốt nghiệp 12 đồng thời cũng là nguyên nhân cho việc học cao học …
Như vậy, thong qua phạm trù vô ngã, vô thường và duyên, triết học Phật giáo đã bác bỏ qua điểm duy tâm cho rằng Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo cho rằng con người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật của thế giới nằm trong quá trình biến đổi không ngừng. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng.
* Quan điểm của triết học Phật giáo về nhân sinh
Nội dung triết lí nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ diệu đế” tức là bốn chân lí tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người phải nhận thức được.
- Khổ đế: Cuộc đời của mỗi con người là một bể khổ, ít nhất có tám nỗi khổ (bát khổ), đó là sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt (thương nhau mà phải xa nhau), oán tang hội (ghét nhau mà phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không được), ngũ thụ uẩn (do năm yếu tố tạo nên con người). Vậy con người ở đâu, làm gì cũng khổ.
- Nhân đế (tập đế): Giải thích nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo cho rằng nỗi khổ của con người là có nguyên nhân, có 12 nguyên nhân của sự khổ gọi là thuyết “thập nhị nhân duyên”.
1. Vô minh: Không sáng suốt.
2. Duyên hành: Ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên lục nhập: Quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan.
6. Duyên xúc: Sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác.
7. Duyên thụ: Sự cảm thụ, nhận thức trước sự tác động của thế giới bên ngoài.
8. Duyên ái: Sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới bên ngoài.
9. Duyên thủ: Do yêu thích mà muốn chiếm lấy, giữ lấy.
10. Duyên hữu: Sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên sinh: Sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: Già và chết vì có sự sinh thành.
Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nỗi đau nhân loại.
- Diệt đế: Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt được để đạt được trạng thái Niết bàn.
- Đạo đế: Con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân, đó cũng là con đường giải thoát khỏi nỗi khổ để đạt đến hạnh phúc. Phật giáo đưa ra 8 con đường chân chính gọi là “bát chính đạo”.
1. Chính kiến: Hiểu đúng đắn tứ diệu đế.
2. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn.
3. Chính ngữ: Nói năng đúng đắn.
4. Chính nghiệp: Giữ nghiệp một cách đúng đắn.
5. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn.
6. Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng hướng.
7. Chính niệm: Tâm niệm tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát.
8. Chính định: Kiên định, tập trung tư tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ diệu đế, về vô ngã, vô thường.
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ được vô minh, đạt tới sự giải thoát, nhập vào Niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài tám con đường chính để diệt khổ, Phật giáo còn đưa ra năm điều răn để mỗi người chủ động thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người. Đó là bất sát (không được sát sinh), bất dâm (không được dâm dục), bất vọng ngữ (không được nói năng thô tục, bậy bạ), bất ẩm tửu (không được rượu trà), bất đạo (không được trộm cướp). Như vậy, Phật giáo là một trào lưu triết học lớn của Ấn Độ trung đại. Ở giai đoạn đầu, học thuyết triết học ấy chứa đựng những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng về thế giới. Phật giáo nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, phê phán sự bất công, đòi tự do, bình đẳng xã hội. Đồng thời, nó cũng nêu lên khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, khuyên con người sống lương thiện, từ bi, bát ái, góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên, triết lí nhân sinh của Phật giáo vẫn còn mang nặng bi quan không tưởng và duy tâm về mặt xã hội.
* Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo du nhập vào nước ta từ những năm đầu công nguyên. Với bản chất từ bi, bát ái, hỷ xả, Phật giáo nhanh chóng tìm được chỗ đứng và dần dần bám rễ vững chắc trên mảnh đất này. Phật giáo truyền vào nước ta bằng 2 con đường: từ Trung Hoa và từ phía Nam. Do phù hợp với truyền thống, đạo đức của người Việt Nam nên Phật giáo thâm nhập vào VN một cách tự nhiên.
Từ khi vào VN đến nay, PG đã tồn tại và phát triển phù hợp với truyền thống VN. PG đã trở thành quốc giáo ở các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, góp phần kiến lập và bảo vệ chế độ phong kiến vững mạnh, giữ vững độc lập dân tộc.
Trước đây, PG có công trong việc đào tạo tầng lớp trí thức cho dân tộc. Trong đó có nhiều vị thiền sư, quốc sư có đức độ và tài năng giúp nước an dân như: Ngô Chân Lưu, Pháp Nhuận, Vạn Hạnh, Viên Thiếu, Không Lộ, … Bản chất từ bi hỷ xả ngày càng thấm sâu vào đời sống tinh thần dân tộc, hướng nhân dân và vua quan vào con đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức, vì dân vì nước.
Vào thời cực thịnh, PG là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục, …Nhiều tác phẩm văn học có giá trị, nhiều công trình kiến trúc độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc, mang tầm quốc tế của VN được xây dựng vào thời kì này. Từ cuối tk XIII cho đến nay, PG không còn là quốc giáo nữa nhưng những giá trị tư tưởng tích cực của nó vẫn còn là nhu cầu, sức mạnh tinh thần của nhân dân ta.