logo

Nghị luận Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi

Các nhà văn, nhà thơ luôn phải làm mới đề tài văn chương mà họ sáng tác, bởi lẽ họ ý thức được rằng nghề cầm bút phải luôn mới mẻ nhưng cũng phải thật thực tế. Vì lẽ đó cuộc sống chính là nơi mà họ khai thác nên câu nói “Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi” đã nêu rõ điều đó Để biết nhiều hơn về cách nghị luận câu nói này Toploigiai mời các bạn đi tìm hiểu cùng chúng mình nhé!


1. Dàn ý nghị luận “Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi”

- Mở bài: 

Giới thiệu chung: Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi

- Thân bài:

+ Giải thích nhận định

Cuộc sống: là những gì đang diễn xung quanh ta, là hỉ, nộ, ái, ố của cuộc sống này.

=> Cuộc sống muôn màu vạn trạng chính là mảnh đất để sáng tạo nghệ thuật. Sử dụng hình ảnh “cánh đồng màu mỡ” một lần nữa Puskin đã khẳng định không ở đâu, không phải một nơi nào khác mà chính cuộc sống này là cơ sở để sáng tạo nghệ thuật, sáng tác thơ ca.

Đặc điểm của văn học là phản ánh hiện thực. Bởi vậy các tác phẩm văn học bao giờ cũng lấy hiện thực làm trung tâm để phản ánh.

Hiện thực cuộc sống muôn màu, muôn vẻ luôn có những ngóc ngách mà ta chưa khám phá hết. Đó chính là nơi để các tác giả lách ngòi của bút của mình để phản ánh.

+ Chứng minh nhận định

Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm.

Giới thiệu những nhà văn với tác phẩm nổi tiếng 

Liên hệ những nhà văn ý thức được văn chương bắt nguồn từ cuộc sống, là đề tài chủ yếu của văn học

- Kết bài

Khẳng định lại câu nói, nhận định

Liên hệ thế hệ trẻ trong cuộc sống cần quan tâm đến hiện thực, đồng thời yêu quý những tác phẩm văn học có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về cuộc sống con người

Nghị luận Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi

2. Nghị luận “Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi”

Bài tham khảo số 1

M.Gorki từng nói: “Ngôn từ là yếu tố đầu tiên của văn học”. Yếu tố ấy làm nên ấn tượng sâu sắc về một tác phẩm đối với người đọc. Sẽ không ai quên chất giọng lửng lơ, xa vời trong “Tiếng sáo thiên thai” của Thế Lữ, hay cái sôi nổi, đắm say trong “Vội vàng” của Xuân Diệu. Cũng vậy, vẻ đẹp ngôn từ giản dị mà tinh tế, sâu sắc trong “Đồng chí” của Chính Hữu đã để lại dư vị âm vang khó quên nơi người đọc. Phải chăng cảm hứng ngợi ca tình đồng chí chân thành, thấm thía đã tạo nên chất giọng có sức lay động mạnh mẽ ấy?

Vẻ đẹp ngôn từ của “Đồng chí” giống như một viên ngọc đa sắc, nhưng cái sắc màu đầu tiên người ta bắt gặp là sắc màu của sự mộc mạc, giản dị, phảng phất đâu đây ngay trong nhan đề tác phẩm. “Đồng chí” là đại từ xưng hô giữa những anh bộ đội cụ Hồ, để chỉ người cùng chung chí hướng, lí tưởng. Và như thế, rất ngắn gọn, rất hàm súc, rất giàu sức gợi, nhan đề ấy đã thể hiện phần nào nội dung tác phẩm cùng tâm tư, tình cảm của tác giả. Chính Hữu cũng không dùng thể thơ có niêm luật để sáng tác “Đồng chí” mà chọn một thể thơ ít ràng buộc cấu tứ hơn, tự nhiên hơn: thể tự do. Chẳng phải thể thơ ấy thì chẳng có những câu tuyệt bút cô đọng, dồn nén tư tưởng, cảm xúc của tác giả, giống một bản lề khép mở hai ý thơ trong bài như câu thứ bảy: “Đồng chí”. Chẳng phải thể thơ ấy thì không diễn tả đầy đủ, thấm thía cuộc sống chiến đấu và vẻ đẹp của những anh bộ đội cụ Hồ. Chính Hữu đã tái hiện rõ nét những tâm tư sâu kín nhất, những kỉ niệm sâu sắc nhất của họ bằng những vần thơ hết sức tự nhiên như chính những tâm hồn thật thà, cởi mở ấy. Và, nếu một năm trước đó, viết về nỗi khổ của người chiến sĩ với hình ảnh bi hùng, tráng lệ:

“Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm

Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”

thì khi sáng tác “Đồng chí”, cũng về điều đó, tác giả lại dùng hình ảnh tả thực đến trần trụi, không chút cầu kì:

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Chân không giày”

Họ, những người chiến sĩ hôm qua còn là anh Pha, anh Dậu…hôm nay đã được giác ngộ bởi ánh sáng cách mạng, đã đứng dậy cầm súng giành độc lập. Nhưng tâm hồn họ vẫn mộc mạc như hòn đất,củ khoai quê nhà. Hiểu như vậy, ta mới thấy được hết giá trị biểu đạt, biểu cảm của thành ngữ dân gian quen thuộc mà tác giả đã sử dụng để đưa vào lời thơ thật khéo léo: “nước mặn đồng chua”, “giếng nước gốc đa”…

Vẻ đẹp ngôn từ của “Đồng chí” là cái giản dị, đã đành, nhưng dường như trong cái giản dị ấy còn mang nét khỏe khoắn, mạnh mẽ của hồn người cầm súng. Các anh xuất thân từ những người nông dân, bởi thế “ruộng nương”, “nhà cửa” là tài sản quý báu nhất đối với họ. Thế nhưng họ sẵn sàng từ bỏ tài sản ấy để ra đi cứu nước. Từ “mặc kệ” cho thấy một thái độ dứt khoát, quyết đoán không gì lay chuyển nổi. Tuy nhiên, chớ có hiểu lầm rằng họ không yêu quê hương, gia đình của họ. Chẳng yêu quê hương mà khi đi xa họ cảm nhận được nỗi nhớ của hậu phương:

“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Chính Hữu đã thật tinh tế khi nhìn thấu tâm tư của “đồng chí”, cũng giống như Nguyễn Đình Thi đã thấu lòng người đi xa:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”

Chỉ có thể lí giải tâm tư ấy của người chiến sĩ: họ nhận thức được con đường họ đang đi và họ thực sự yêu quê hương, yêu đất nước của mình. Các anh chấp nhận hi sinh tài sản cá nhân để bảo vệ mục đích chung, có khác nào ông Hai trong “Làng” của Kim Lân vui mừng ngay cả khi “Tây nó đốt nhà tôi rồi”, vì từ đây, ông không phải mang cái tiếng “người làng Việt gian”. Những hành động ấy bắt nguồn từ đâu, nếu không phải là từ lòng yêu quê hương, đất nước? Những người lính “mặc kệ” tài sản cá nhân để nhập ngũ, họ không hối tiếc, ngay cả khi chịu nhiều gian khổ, thiếu thốn nơi chiến trường vẫn “miệng cười buốt giá”.Một nụ cười như cũng trở nên méo mó giữa tiết trời khắc nghiệt. Nhưng đó lại là nụ cười đẹp nhất, ấm áp nhất của ý chí kiên cường không khó khăn gì làm lung lạc được. Giữa “rừng hoang sương muối” họ phục kích chờ giặc trong đêm, “chờ giặc tới” với một tư thế hiên ngang như “thành đồng”. Từ “chờ” tuy là thanh bằng nhưng vang lên mạnh mẽ, rắn rỏi, mang dư vị sắt đá của một tâm hồn, một bản lĩnh vững vàng…

Một ngôn ngữ khỏe khoắn, nhưng không rời rạc, bởi Chính Hữu đã thổi vào đó một thứ keo dính chặt – tình đồng chí. Hầu như cả bài thơ đều là những câu mang kết cấu song hành, với những cụm đại từ sóng đôi:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá; Anh với tôi…/Anh với tôi…; Áo anh…/ Quần tôi…”

Có thể thấy một điều đặc biệt rằng “anh” bao giờ cũng đứng trước “tôi”. Phải chăng “tôi” quan tâm đến nỗi lòng của “anh” nên gác lại nỗi lòng của mình, để rồi soi vào “anh” mới bất giác nhìn lại “tôi”? Chính Hữu đã hóa thân vào “tôi”, đã sống thật những tình cảm, những cảm xúc mà ông đã trải qua, để viết lên những dòng rất đỗi thấm thía về tình đồng chí. Cùng chung lí tưởng, mục đích, ấy là “đồng chí”, giống như Tố Hữu từng nhắc tới:

“Đã thành đồng chí chung câu quân hành”

Nhưng với Chính Hữu, “đồng chí” còn là chung hoàn cảnh, chung tâm tư, chung ý chí, chung nỗi khổ chiến đấu:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

…Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

…Đứng cạnh bên nhau…”

Những từ mang tính gắn kết “bên, sát, với” như nâng tình đồng chí lên một tầm cao mới. Bởi “chung” nhiều điều như vậy mà các anh biết chia sẻ, cảm thông cho nhau:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Tình đồng chí thể hiện trong từng vần thơ, nhưng có lẽ thấm thía nhất ở từ “thương nhau”. “Thương nhau”, họ không nói bằng lời mà chỉ qua bàn tay, bàn tay giao cảm thay lời chưa nói:

“Phút chia tay, ta chỉ nắm tay mình

Điều chưa nói, thì bàn tay đã nói”

(Lưu Quang Vũ)

Chỉ cần “tay nắm lấy bàn tay”, chỉ cần tình đồng chí là tưởng chừng đã có thể dập tan mọi gian lao, thử thách trên đường giành độc lập, quét sạch bóng quân thù. Và họ đã làm được điều đó. Cuộc sống phồn vinh, hòa bình ngày nay phải chăng chính là kết quả của tình đồng chí và những tình cảm cao đẹp khác?

Nếu như ở những dòng thơ trên, ngôn ngữ thơ mang nét giản dị, khỏe khoắn, bền chặt thì sang đến câu thơ cuối, giọng điệu thơ như muốn bay lên, cao mãi, cao mãi. Những người nông dân mặc áo lính bỗng nhiên trở thành những thi sĩ hào hoa có nhiều liên tưởng đẹp:

“Đầu súng trăng treo”.

Hình ảnh “đầu súng” ta đã bắt gặp rất nhiều trong thơ ca:

“Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan” – Tố Hữu

“Heo hút cồn mây súng ngửi trời” – Quang Dũng

Nhưng liên tưởng “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu vẫn khiến ta bất ngờ, thú bị. Tuy là thực nhưng hình ảnh thơ thật đột ngột, mơ mộng. Trong giây phút căng thẳng khi “chờ giặc tới” mà người lính lại có thể có những liên tưởng đẹp nhường vậy. Rõ ràng, họ là những người có tâm hồn lãng mạn, có phong thái ung dung, là những anh bộ đội cụ Hồ thực sự. Chính Hữu đã thật tài tình khi khéo léo sắp xếp, đặt hai hình ảnh đối lập cạnh nhau, gợi ra nhiều ý nghĩa phong phú, sâu xa. “Đầu súng” ở đây liệu rằng có phải ẩn dụ cho hiện tại đấu tranh và “trăng” là tượng trưng cho tương lai hòa bình, viên mãn? Hay “đầu súng” là cách mạng còn “trăng” là ánh sáng tôn vinh Đảng?... Dù là gì đi chăng nữa, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” vẫn mang ngôn ngữ hào hoa, bay bổng, mở ra nhận thức mới của người lính. Họ thả hồn theo ánh trăng nhưng không thoát li thực tại, họ chọn con đường nguy hiểm nhưng vẫn thoải mái, ung dung, ý thức được mục đích, con đường mình đang đi. Hình ảnh thơ như khép lại màn đêm “rừng hoang sương muối” để mở ra một hi vọng, một hiện thực mới…

Vẻ đẹp ngôn từ giản dị, mộc mạc mà tinh tế, sâu sắc của “Đồng chí” giúp người đọc hiểu rõ hơn về cuộc sống, về tâm hồn của những anh bộ đội cụ Hồ, từ đó thêm tự hào về dân tộc Việt Nam ta.

Bài tham khảo số 2

“Anh đi qua trái đất để lại chừng thơ ấy

Hãy thương anh! Anh nào có chi nhiều

Một chút nắng tàn, một dòng nước chảy

Trái tim nghèo, nhưng cũng đã tin yêu.”

Nếu người hoạ sĩ cầm cây cọ dùng đường nét và màu sắc để phác hoạ lên bức tranh hiện thực về cuộc sống, ca sĩ dùng thanh âm trong trẻo của mình để làm đẹp cho đời bằng những tiếng ca thì thi sĩ lại dùng ngòi bút của mình để tô điểm cho cuộc đời. Vì thế mà hiện thực đời sống luôn là nguồn cảm hứng vô tận sáng tạo nên văn chương. Như Pu-skin đã từng nói: “Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để thơ ca bén rễ  sinh sôi”. Nhìn vào những trang thơ thấm đẫm tính lịch sử của giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, ta mới thấy thấm thía câu nói của Pu-skin đến nhường nào. Và phải chăng, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã bén rễ sinh sôi” qua thi phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” mà đoạn thơ tiêu biểu làm nên thành công của tác phẩm là khổ thơ cuối cùng của bài:

“Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

Lời nhận định của Pu-skin khiến người ta đọc một lần rồi nhớ mãi trong tim bởi cách định nghĩa mới mẻ của nhà văn về cuộc sống. Cuộc sống không chỉ là những gì đang diễn ra xung quanh ta, là hỉ nộ ái ố mà dưới góc nhìn của đại thi hào người Nga, nó đã có phần bay bổng và lãng mạn hơn khi là “cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi”. Cuộc sống muôn màu vạn trạng chính là mảnh đất tươi tốt để sáng tạo nghệ thuật. Không ở đâu, không ở nơi nào khác mà chính cuộc sống này là cơ sở để sáng tạo văn chương, thơ ca. “Thơ phản ánh đời sống con người trên toàn diện sinh động của nó từ mặt tầng (hành động) tới đáy tầng (tâm linh) qua hết mọi phương diện xã hội”.Có lẽ vì thế mà thơ là cuộc hôn phối giữu vũ trụ và con người. Nhưng bạn có từng thắc mắc tại sao “Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ và sinh sôi” ? Đặc điểm của văn học là phản ánh hiện thực cho nên các tác phẩm văn học bao giờ cũng lấy hiện thực làm trung tâm để phản ánh. Hiện thực cuộc sống ấy muôn màu muôn vẻ, luôn có những ngóc ngách mà ta chưa khám phá hết. Đó chính là nơi để tác giả lách ngòi bút của mình đem đến cho người đọc những cái nhìn mới mẻ.

Quay trở lại quá khứ, đi sâu tìm hiểu những trang thơ của Phạm Tiến Duật, ta như sống lại thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc. Với giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, tinh nghịch nhưng cũng rất sâu sắc, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã khắc hoạ hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn trong thời chống Mỹ cùng tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm vì ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Phải nói rằng ngòi bút của nhà thơ Phạm Tiến Duật thật uyển chuyển và khéo léo khi khắc hoạ thành công hiện thực cuộc sống nơi chiến trường gian khổ mà ta có thể cảm nhận sâu sắc nhất là hình ảnh những chiếc xe không kính di chuyển từ Bắc vào Nam trên tuyến đường Trường Sơn bỏng cháy:

“Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Chỉ với 4 dòng thơ vỏn vẹn 32 chữ nhưng khổ thơ như một thước phim tái hiện lại một cách chân thật, rõ nét nhất về những khó khăn trong những ngày kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hai câu thơ đầu của khổ thơ đã nói lên sự thiếu thốn của những chiếc xe bon bon chạy trên tuyến đường Trường Sơn rực lửa. Điệp ngữ “Không có” kết hợp với biện pháp liệt kê “kính”, “đèn”, “mui xe”, “xước” đã nhấn mạnh sự thiếu thốn của những “chiến mã”.  ́y vậy mà điều kì diệu vẫn xảy ra, mặc cho thiếu thốn đủ thứ nhưng những chiếc xe vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như muốn nhân lên nhiều lần thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ nhưng lại ngắt thành bốn khúc như những chặng đường gập ghềnh, khúc khuỷu đầy chông gai, bom đạn trực chờ giải xuống bất cứ lúc nào.Trong bài hát “Chào em cô gái Lam Hồng”, hình ảnh những chiếc xe lại được một lần nữa được khắc hoạ giống như bức tranh được vẽ trong thơ ca của Phạm Tiến Duật:

“Xe ta bon trên những dặm đường

Giữa làng quê ta băng bao suối đèo, đồi nương

Mà xe ta bon ra chiến trường”.

Hoà chung với không khí đồng lòng đoàn kết quyết tâm giải phóng miền Nam ruột thịt, những chiếc xe như những người bạn không quản ngại ngày đêm mệt mỏi góp sức mình làm nên chiến thắng của đất nước. Những chiếc xe như những người lính kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến cùng với những chiến sĩ bởi có một thứ tình cảm thiêng liêng tốt đẹp được cất giấu trong lòng mỗi anh:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Hai câu thơ đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ của người lính lái xe trên đường Trường Sơn. Dù mọi thứ trong xe không còn nhưng chỉ cần vẹn nguyên một trái tim thì xe vẫn chạy. Đó không chỉ là sự ngoan cường, dũng cảm vượt lên tren mọi gian khổ mà còn tượng trưng cho tình yêu nước cao cả của các anh. Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng những chiếc xe nhưng sẽ chẳng bao giờ làm giảm đi tinh thần, ý chí chiến đấu của những  người chiến sĩ lái xe. Xe không chỉ chạy bởi động cơ máy móc mà còn chạy bởi động cơ tinh thần “vì miền Nam phía trước”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi. “Trái tim” đặt ở cuối bài thơ là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp, chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm nhưng cũng mang đậm tinh thần lạc quan và niềm tin mãnh liệt vào ngày đất nước thống nhất. Hình ảnh này kết hợp cùng với kết cấu vẫn...chỉ cần” đã cho thấy thực chất người cầm lái phải chăng chính là trái tim. Chính tình yêu tổ quốc, yêu thương đồng bào đã động viên, khích lệ người chiến sĩ vận tải vượt qua tất cả những thử thách gian nan, luôn vững tinh thần, chắc tay lái để đưa đoàn xe khẩn trương về đích.

Có sống trong thời kì mưa bom bão đạn trút xuống đều đều hằng ngày ấy, ta mới thấm đẫm những gian khổ nhọc nhằn mà cha ông ta đã trải qua. Đúng như lời nhận định: “Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho câu thơ bén rễ sinh sôi”, Phạm Tiến Duật đã dùng ngay hiện thực khó khăn một thời lịch sử để làm nguyên liệu đưa vào món ăn của mình. Khổ thơ cuối cũng như cả bài thơ đã khắc hoạ hiện thực thời chiến tranh chống đế quốc Mỹ một cách chân thực và sống động nhất. Đúng như nhà thơ Đỗ Trung Lai đã nận xét: “Sáng tác của Phạm Tiến Duật là “Một góc bảo tàng tươi sống về Trường Sơn thòi chống Mỹ”. Qua đó, tác giả cũng ca ngợi những con người dù gặp khó khăn hoạn nạn nhưng vẫn kiên cường, một lòng tiến về phía trước.

Một khổ thơ nhưng đọng lại trong tâm trí mỗi người những cảm xúc khó có thể nào quên được. Chỉ với ba mươi hai chữ cùng với phép liệt kê, điệp cấu trúc, hình ảnh hoán dụ nhưng tác giả đã vẽ nên một khung cảnh những chiếc xe thiếu thốn đủ điều vẫn hăng say chạy trên tuyến đường rực lửa cùng những người lính cụ Hồ có một trái tim yêu nước và niềm tin vì một ngày mai độc lập. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã giúp bạn đọc có cái nhìn cụ thể hơn về người lính để ta thêm yêu hơn, kính nể hơn những con người đã làm nên đất nước yên bình như ngày hôm nay.

“Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để thơ ca bén rễ sinh sôi” như một câu nhận định còn sống mãi với thời gian bởi không có tác phẩm nào mà không xuất phát từ cuộc sống. Văn chương, thơ ca cho dù có hay đến đâu cũng đều lấy chất liệu từ hiện thực đời sống của con người. Vì vậy, nếu văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội (Stendhal) thì nhà văn chính là thư ký của thời đại (Balzac).

>>> Tham khảo: Nghị luận xã hội về phía sau lời nói dối

----------------------

Trên đây Toploigiai đã cùng các bạn đến với Nghị luận Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi, hi vọng với những kiến thức chúng tôi cung cấp, các bạn có thể đạt được kết quả cao trong học tập. Mời các bạn đến với câu hỏi tiếp theo.

icon-date
Xuất bản : 16/10/2022 - Cập nhật : 16/10/2022