Tổng hợp nội dung trả lời câu hỏi Cụm từ Nghi gia nghi thất nghĩa là gì? ngắn gọn, hay nhất, giúp các bạn học tốt môn Ngữ văn.
“Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cát én lìa đàn, nước thấm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.”
(Ngữ văn 9, Tập một, NXB GDVN, 2015, trang 45)
Đây là một đoạn trích trong SGK Ngữ văn 9, tập một, trang 45 bài “Chuyện người con gái Nam Xương” cuả Nguyễn Dữ.
- Thành ngữ “nghi gia nghi thất” xuất hiện trong đoạn trích trên có nghĩa là nên cửa nên nhà, thành vợ thành chồng, cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình.
a. Tiểu sử
- Nguyễn Dữ là người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân nay là xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, Hải Dương.
- Ông là con trai cả Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu.
- Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào.
- Tương truyền ông là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bạn học của Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ 16. Tuy nhiên mối quan hệ giữa ba người (mà phần lớn từ nguồn dân gian lưu truyền trong nhiều thế kỷ nhưng thiếu chứng cứ lịch sử) ngày nay đang gặp phải sự bác bỏ của giới nghiên cứu văn học sử.
- Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà.
- Sau khi đậu Hương tiến (tức Cử nhân), ông làm quan với nhà Mạc, rồi về với nhà Lê làm Tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phú); nhưng mới được một năm, vì bất mãn với thời cuộc, lấy cớ nuôi mẹ, xin về ở núi rừng Thanh Hóa. Từ đó trải mấy năm dư, chân không bước đến thị thành rồi mất tại Thanh Hóa.
b. Tác phẩm truyền kỳ mạn lục
Truyền kì mạn lục là tác phẩm duy nhất của ông. Nó chính là những câu chuyện lạ mà ông bắt gặp hoặc nghe được trong cuộc đời của mình. Theo lời tựa của Hà Thiện Hán viết năm 1547, thì ông viết ra tập lục này để ngụ ý trong thời gian ẩn cư ở núi rừng xứ Thanh.
Sách gồm 20 truyện, được viết bằng chữ hán và theo thể loại tản văn. Xen lẫn biền văn là thơ ca. Ở cuối mỗi truyện ( trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình của tác giả hoặc của một người có cùng quan điểm của tác giả. Tác phẩm được Hà Thiện Hán, người cùng thời viết lời tựa. Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính, Nguyễn Thế Nghị dịch ra chữ Nôm. Được tiến sĩ Vũ Khâm Lân đánh giá là một “ thiên cổ kỳ bút”.
Theo bản Tân biên truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú được in năm 1763, thì tên của tác giả là Nguyễn Dư. Trong quyển Việt Nam văn học sử yếu ( bản in lần thứ nhất, 1944, trang 290), của Dương Quảng Hàm đầu sách in là Nguyễn Dữ, tuy vậy ở cuối sách tác giả có đính chính lại là Nguyễn Dư.
a. Hoàn cảnh sáng tác
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là nhan đề của câu chuyện thứ 16 trong 20 truyện được chép lại trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục bằng chữ Hán của danh sĩ Nguyễn Dữ sống vào cuối thời nhà lê cuối thế kỉ XVI nhà Lê Sơ, đầu thời nhà Mạc. Dựa trên một câu chuyện dân gian về một nỗi oan khuất của một người thiếu phụ, Nguyễn Dữ đã viết về phẩm chất và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, đồng thời lên án, tố cáo lễ giáo phong kiến hà khắc đã không cho người phụ nữ được bảo vệ mình. Truyện được đánh giá là một áng "thiên cổ kì bút", phản ánh sinh động về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác phẩm đã được đưa vào làm văn bản chính của Bài 4 Sách giáo khoa Ngữ Văn Lớp 9 (Tập 1) thuộc Bộ Sách Giáo Khoa Chính Thức của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo.
b. Bố cục
- Phần 1 (từ đầu… như đối với cha mẹ đẻ mình): Cuộc sống của Vũ Nương khi được gả về nhà Trương Sinh cho đến trước khi Trương Sinh trở về
- Phần 2 (tiếp… nhưng việc trót đã qua rồi): Số phận oan khuất của Vũ Nương
- Phần 3 (còn lại): Vũ Nương được giải oan
c. Tóm tắt đoạn trích
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp nên được Trương Sinh đem lòng yêu mến liền xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Biết chồng có tính đa nghi nên, Vũ Nương hết mực giữ gìn khuôn phép. Bấy giờ, đất nước có chiến tranh, Trương Sinh phải lên đường đi lính. Vũ Nương ở nhà sinh nuôi dạy con và chăm sóc mẹ già, lo ma chay chu đáo khi mẹ chồng mất. Khi Trương Sinh trở về, bế con ra mộ thăm mẹ thì hiểu lầm rằng vợ có người khác. Vũ Nương chịu oan khuất biết không thể rửa sạch liền nhảy xuống sông tự vẫn. Một đêm nọ, Trương Sinh bế con ngồi trước ngọn đèn, thấy đứa bé chỉ vào cái bóng mình bảo đấy là cha mới nhận ra mình đã hiểu lầm vợ, hối hận cũng đã muộn. Cùng làng có người tên là Phan Lan vì cứu Linh Phi trước đó nên khi gặp nạn chết đuối đã được Linh Phi cứu sống, tình cờ gặp Vũ Nương ở thủy cung. Phan Lang trở về trần gian Vũ Nương gửi theo chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trương Sinh. Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến Hoàng Giang. Vũ Nương hiện ra giữa dòng ngồi trên chiếc kiệu hoa đa tạ chàng rồi biến mất.
----------------------
Đây là một thành ngữ không quá phổ biến, do đó còn nhiều người chưa hiểu Nghi gia nghi thất nghĩa là gì. Qua bài viết này, mong rằng các bạn sẽ bổ sung thêm cho mình thật nhiều kiến thức và học tập thật tốt nhé! Cảm ơn các bạn đã theo dõi và đọc bài viết!