Trả lời:
Dung dăng dung dẻ là một trong những bài đồng dao được yêu thích đối với lứa tuổi trẻ thơ đầy hồn nhiên và ngây ngô.Đây là một bài đồng giao gắn bó với biết bao thế hệ tuổi thơ của độc giả.
Đồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng của trẻ em Việt Nam dùng để hát khi đi làm đồng, làm ruộng. Đồng dao bao gồm nhiều loại: các bài hát, câu hát trẻ em, lời hát trong các trò chơi, bài hát ru em... Thường gặp nhất là các bài đồng dao gắn liền với các trò chơi trẻ em. Nói chung, đồng dao trong các trò chơi trẻ em ở các vùng miền đều khá giống nhau ở nội dung, chỉ khác một vài tiếng địa phương.
Xét về phương diện thể loại, đồng dao thuộc lĩnh vục những bài ca dân gian. Có thể xét đặc điểm của đồng dao ở ba mặt : diễn xướng, chức năng sinh hoạt, sự kết hợp với âm nhạc.
Về phương diện diễn xướng, đổng dao chỉ dành cho trẻ em hát (người lớn không khi nào hát đồng dao với những mục đích riêng của mình).
Về phương diện sinh hoạt, đồng dao có chức năng gắn với vui chơi và trò chơi.
– Cũng như các thể loại văn học dân gian khác, đồng dao được lưu hành bằng miệng, thể hiện rõ tính tập thể và tính dị bản nhưng tính dị bản của đồng dao có phần phóng túng, tự do hơn ca dao, tục ngữ. Ngôn ngữ, nội dung của các bài đồng dao đôi khi được cải biên cho phù hợp với sinh vật, cảnh quan, ngôn ngữ của từng địa phương. Mặt khác, trong quá trình hát với nhau trẻ đã tự thay đổi một số từ và một số chi tiết của đồng dao.
– Đồng dao có một số câu khó hiểu, đặc biệt là câu mở đầu. Nhiều nhà Nho cho đó là những sấm ngữ. “Thực ra, đi tìm ý nghĩa của những câu này, e cũng giống việc đi tìm chính ngọ lúc 14 giờ mà thôi” (Vũ Ngọc Khánh). Tuy vậy những lời không có nghĩa ấy không phải là không có tác dụng. Đây là những lời dẫn cảm để gây hứng thú cho trẻ. Vẫn có một quy tắc đặt lời dẫn cảm chứ không phải là sáng tác vô ý thức. Đây là cách nói, cách phát âm rất gần với đặc điểm phát âm bập bẹ hoặc bỏ rơi âm tiết lúc trẻ ở giai đoạn tiền ngôn ngữ. Cũng có lúc người ta dựa ngay vào động tác của trò chơi được nói đến trong bài đồng dao, lấy đó làm từ chính và dùng phương pháp cấu tạo từ láy, cấu tạo tiếng đệm để phát triển thành một ngữ. (Trò Dung dăng dung dẻ: chữ dăng trong hành động dăng tay; trò Vu vi vút vút: chữ vút ứng với hành động vung roi).
– Không có đề tài tập trung trong đồng dao trừ những bài người ta có dụng ý tập hợp riêng để giới thiệu như: vè trái cây, vè chim chóc… Các bài hát trẻ em phần lớn chỉ là những đoạn chắp vá, tản mạn, gặp đâu nói đó, cốt cho vần vè. Điều này phù hợp với đặc điểm tư duy ngoại vật thiên về ấn tượng chứ không bằng tư duy lí luận của trẻ.
– Tương tự như các thể loại văn học dân gian khác thì đồng dao cũng được lưu truyền bằng hình thức truyền miệng vì thế mà nó thể hiện rõ tính tập thể và cả tính dị bản. Tuy nhiên khi so sánh với ca dao, tục ngữ thì tính dị bản của đồng dao có phần phóng túng, tự do hơn.
Để phù hợp với sinh vật, cảnh quan cũng như ngôn ngữ của từng địa phương thì ngôn ngữ, nội dung của các bài đồng dao đôi khi có thể được cải biên để nhằm phù hợp nhất với những yếu tố trên. Đặc biệt, trẻ trong quá trình hát với nhau có khả năng thay đổi một số từ và cả một số chi tiết của bài đồng dao.
Đặc trưng các bài đồng dao ở những câu mở đầu vẫn có một quy tắc đặt lời dẫn cảm để tuân theo chứ không phải là sáng tác một cách vô ý thức. Bởi đây là cách phát âm, cách nói rất gần với đặc điểm phát âm bập bẹ hoặc đôi khi là bỏ rơi âm tiết lúc trẻ ở giai đoạn tiền ngôn ngữ.
– Cũng có lúc dựa ngay vào động tác của trò chơi được nói đến trong bài đồng dao mà người ta lấy nó làm chính cùng việc sử dụng phương pháp cấu tạo tiếng đệm hay cấu tạo từ láy để phát triển thành một ngữ. Ví dụ: Trong bài đồng dao dung dăng dung dẻ có nói về trò Dung dăng dung dẻ thì chữ “dăng” được lấy từ hành động dăng tay; Trò Vu vi vút vút thì chữ “vút” được lấy từ hành động vung roi.
Chi chi chành chành
Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết trương
Tam vương ngũ đế
Cấp kế đi tìm
Con chim ập lại
Ù à ù ập
Nu na nu nống
Phiên bản 1:
Nu na nu nống
Đánh trống phất cờ
Mở cuộc thi đua
Chân ai sạch sẽ
Gót đỏ hồng hào
Không bẩn tí nào
Được vào đánh trống
Phiên bản 2:
Nu na nu nống
Cái cống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Bụt ngồi bụt khóc
Con cóc nhả ra
Con gà ú ụ
Nhà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Tay xòe chân rụt
Tập tầm vông
Tập tầm vông
Tay không tay có
Tập tầm vó
Tay có tay không
Tay nào có
Tay nào không?
Ô ăn quan
Hàng trầu hàng cau
Là hàng con gái
Hàng bánh hàng trái
Là hàng bà già
Hàng hương hàng hoa
Là hàng cúng Phật.