Hướng dẫn trả lời 4 đề Đọc hiểu Đứa con của Thạch Lam trắc nghiệm, tự luận chi tiết, chính xác giúp bạn ôn luyện đề thi Ngữ văn Đọc hiểu đạt kết quả cao
Đọc ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi:
ĐỨA CON
(Thạch Lam)
Chị Sen cúi mình dưới gánh nước nặng trĩu, lách cửa bước vào những bước khó nhọc và chậm chạp. Cái đòn gánh cong xuống và rên rỉ trên vai, nước trong thùng sánh tóe ra mỗi bước đi. Chị cố hết sức lên khỏi mấy bậc thềm, đặt gánh nước trên đất, rồi lấy vạt áo lau mồ hôi rỏ giọt trên trán.
– Trời chiều rồi mà chị còn gánh nước cơ à?
Chị Sen thong thả một lát rồi mới trả lời:
– Con phải gánh nước nữa cho ông tắm chứ đã thôi đâu. Từ sáng đến giờ hơn mười gánh nước rồi.
Tôi ái ngại nhìn chị. Sông ở xa, từ nhà ra đến sông phải đi một quãng đường dài. Bà Cả hà tiện không chịu mua một chinh một gánh nước của người ngoài chợ chở vào bán, bà bắt chị Sen phải gánh suốt ngày. Tôi trông chị mà thương hại; người chị bé nhỏ da sạm nắng. Chân tay đã bị những công việc nặng nhọc làm thành xấu xí và cằn cỗi.
Tôi sắp nói với chị một câu an ủi, thì bỗng có tiếng the thé, – tiếng bà Cả – ở trên nhà đưa xuống:
– Không đi mà gánh nước cho ông tắm đi còn đứng đấy mà chầu chuyện. Gần tối rồi còn gì nữa.
Tôi ngoảnh lại thấy bà Cả đứng ở trên thềm, mặt cau có và giận dữ. Chị Sen sợ hãi, lẳng lặng tra đòn gánh vào quang, đi ra cửa. Tôi nghe thấy chị khẽ thở dài. Chị đi rồi, tôi cũng quay về, sau lưng mang nặng cái nhìn của bà Cả; chắc bà ta không bằng lòng tôi chút nào, nhưng vì tôi là con cháu nên bà không dám nói đấy thôi.
Chúng tôi, và tất cả mọi người trong họ không ai ưa gì bà Cả, mà còn ghét nữa. Không biết trong cái ghét ấy có lẫn chút ganh tị không, vì bà Cả giàu lắm, – nhưng hễ nói đến tên bà mọi người ai cũng bĩu môi khinh bỉ. Hai vợ chồng ông Cả trước kia cũng nghèo hèn. Sau nhờ cho vay lãi, lãi rất nặng mà trở nên giàu có. Nhưng bà kiệt ác lắm. Một tay bà Cả đã tịch ký không biết bao nhiêu ruộng nương của người ở trong vùng. Những người vay nợ, bà bắt phải biếu xén, nên trong nhà bà lúc nào cũng có gà vịt, gạo hay chân giò. Nhưng hai ông bà hà tiện không dám ăn gà vịt, đem bán ở chợ còn chân giò phơi khô để dành. Bữa cơm chỉ có một ít vừng rang thật mặn, một ít thịt kho rim và một đĩa rau. Hai ông bà thường kêu rằng khó ở, luôn luôn không ăn được. Chị Sen biết nhiều về những bữa cơm ấy vì chị phải ăn cơm với muối là thường. Nhiều khi sang chơi, tôi thấy chị ngồi trước mâm cơm chỉ có đĩa không, với bát nước mắm. Chị ăn uể oải và thong thả như người không ăn được, tuy chị đói. Chị bảo rằng, cơm với muối khó ăn lắm, nuốt vào nó nghẹn ở cổ.
Chị Sen là con một người làng có nợ ông bà Cả. Nghe đâu thầy chị vì chạy cái Nhiêu, phải lên lạy van bà Cả vay ba chục. Ngày mùa đã trả được một nửa và ít lãi, còn một nửa chưa trả được, phải đem chị Sen gán làm đứa ở không công. Nhưng mẹ chị Sen nói mãi, bà Cả rộng lượng hẹn một năm cho hai áo cánh, một cái áo nâu dài và hai cái quần sồi. Mẹ chị Sen cám ơn lòng tử tế cao cả của người chủ nợ. Bà dặn con ở lại hầu hạ ông bà Cả chu đáo, rồi về.
Từ đấy chị Sen quán xuyến hết cả công việc trong nhà. Nào gánh nước, bổ củi, làm cơm, đầu tắt mặt tối suốt ngày, mà vẫn bị mắng chửi. Vì bà Cả là người to tiếng và lắm điều lắm. Không lúc nào hàng xóm không nghe tiếng bà the thé và rít lên, chửi chó, mắng mèo, hay bới móc chị Sen. Vô phúc cho chị mà hé răng nói lại. Tức thì bà Cả nhảy lên, hai hàm răng nghiến vào nhau, thét:
– Cái con chết băm chết vằm kia! Mày ăn hại cơm của bà mà không làm việc cho bà à! Bố mày định ăn không ăn hỏng của bà, thì bà mới phải nuôi báo cô mày chứ!
Chị Sen lẩm bẩm: “Thầy con chưa lo được trả bà chứ có phải định quỵt nợ đâu mà bà chửi”, nhưng chỉ lẩm bẩm trong miệng thôi, chứ không dám nói. Những lúc ấy, các người hàng xóm nghe tiếng bà, lại thì thầm bảo nhau: “Gớm ác nghiệt thế chả trách được không có con. Trời nào cho con những người như thế”, và họ thấy hể hả trong lòng như một sự báo thù. Ông bà Cả không có con. Đó là sự phiền muộn nhất. Hai ông bà bây giờ đã có tuổi, không còn mong mỏi gì nữa. Trước kia bà Cả đã chạy thầy chạy thuốc chán, lễ hết đền kia phủ nọ để cầu lấy mụn con; nhưng ông càng ngày càng yếu mà bà thì cứ cằn cỗi héo hắt lại như mấy cây khô, chẳng sinh nở gì cả. Người trong họ ghét bà thường bảo: “Không biết kiệt như thế rồi giữ của để cho ai?” Những lời thị phi ấy đến tai bà Cả, có lẽ khiến cho bà tức tím ruột gan. Bà càng ghét họ hàng, và không ưa con cháu đến chơi, tuy chúng tôi đến, bà không dám ghét ra mặt. […]
Chị Sen ở với bà Cả được ngót một năm. Bữa hôm ấy, thấy tiếng bà Cả quát tháo đã lâu, tôi chạy sang. Chị Sen đang cúi đầu vào đống rơm khóc. Tôi hỏi tại sao, chị nức nở đáp:
– Tôi lỡ tay đánh vỡ một cái chén, bà ấy đánh tôi đau quá.
Chị Sen thâm tím cả mình mẩy, một vết roi ấy qua môi làm rướm máu. Chị vừa xoa bóp vừa than thở:
– Bởi thầy u tôi mắc nợ nên tôi mới phải chịu khổ thế này.
– Thế chị xin về có được không?
Chị Sen sẽ lắc đầu thở dài, không nói. Có lẽ chị nghĩ đến món nợ còn thiếu, nếu chưa trả được nhà cửa sẽ bị tịch ký. Cách đó ít lâu, mẹ chị Sen hay lên vào hầu chuyện bà Cả. Người ta nói chị Sen sắp xin về đi lấy chồng. Nhưng hễ có ai hỏi là bà Cả trả lời:
– Cái đồ cơm toi ấy thì ai lấy mà chồng với con.
Rồi chúng tôi thấy chị Sen càng phải chửi và phải đòn hơn trước. Hơi một tí là bà Cả nhắc đến món tiền nợ để nhiếc móc chị, nói nay đuổi đi, mai đuổi đi, không nuôi chị “cái con trương xác chỉ hay ăn” ấy nữa. Chúng tôi thấy chị khóc luôn; sang lúc nào cũng thấy chị mắt đỏ hoe, hay đang lấy muối và nước nóng đắp vào những vết thương bởi roi ông Cả.
(Lược một đoạn: thầy u chị Sen mang quà lên gặp ông bà Cả và xin cho chị về đi lấy chồng. Hai năm sau chị Sen cùng thầy u mình trở lại gia đình bà Cả, lúc này chị Sen đã có đứa con trai mười bốn tháng tuổi. Bà Cả bế đứa con chị Sen, mắt bà sáng lên một tia sáng thèm muốn và ao ước. Bà Cả khen thằng bé con chị Sen kháu khỉnh)
Bà chép miệng nói khéo:
– Nhà thì túng, một đồng, một chữ không có, mà cứ phải lo thuốc cho con thật đến khổ.
Nhưng bà Cả hình như không nghe thấy gì nữa. Mắt bà đờ ra như đang theo đuổi một ước vọng xa xôi; bà đang nghĩ rằng không bao giờ bà được biết những nỗi lo sợ ấy, bởi không bao giờ bà được bồng đứa con trên tay, được nâng niu ấp ủ một cái mầm sống trong lòng. Không bao giờ… Giá bà đánh đổi tất cả của cải để lấy đứa con! […], bà Cả mở tủ lấy hai đồng bạc mới đưa cho chị Sen, bảo:
– Đây, tôi cho chị cầm về may áo cho con mặc. Rồi đến Tết bế nó lên chơi nhé!
Chị Sen e lệ đút hai đồng bạc vào ruột tượng; chị cảm động quá không cám ơn bà Cả được. Một lát sau, hai vợ chồng bác Nhiêu hớn hở xách bu gà và buồng chuối ra về, chị Sen vui vẻ theo sau, vừa đi vừa mừng con rối rít.
Câu 1. Ngôi kể trong truyện là:
A. Ngôi thứ ba
B. Ngôi thứ hai
C. Ngôi thứ nhất xưng “tôi”
D. Ngôi thứ nhất và thứ ba
Câu 2. Mạch kể chuyện theo trình tự nào sau đây?
A. Trình tự thời gian
B. Trình tự không gian
C. Trình tự mạch kể chuyện từ hiện tại-quá khứ-hiện tại
D. Trình tự mạch kể chuyện từ quá khứ-hiện tại-tương lai
Câu 3. Xác định nhân vật chính trong truyện
A. Nhân vật “tôi”
B. Nhân vật bà Cả
C. Nhân vật thầy u chị Sen
D. Nhân vật chị Sen
Câu 4. Nội dung nào nêu đúng thái độ của nhân vật “tôi” đối với chị Sen qua hai câu văn:
“Tôi trông chị mà thương hại; người chị bé nhỏ da sạm nắng. Chân tay đã bị những công việc nặng nhọc làm thành xấu xí và cằn cỗi.”
A. Nhân vật “tôi” mỉa mai thân hình chị Sen bé nhỏ, chân tay xấu xí, cằn cỗi
B. Nhân vật “tôi” rất ấn tượng với dáng người bé nhỏ và nước da sạm nắng của chị Sen
C. Nhân vật “tôi” rất thương cảm chị Sen vì chị phải làm lụng vất vả, nặng nhọc, cực nhục nên nước da sạm nắng, chân tay trở nên xấu xí, cằn cỗi đi.
D. Nhân vật “tôi” khuyên chị Sen không nên làm lụng vất vả đến nỗi phai tàn nhan sắc
Câu 5. Đoạn văn sau đây gợi ra những điều gì ở ông bà Cả?
“Nhưng bà kiệt ác lắm. Một tay bà Cả đã tịch ký không biết bao nhiêu ruộng nương của người ở trong vùng. Những người vay nợ, bà bắt phải biếu xén, nên trong nhà bà lúc nào cũng có gà vịt, gạo hay chân giò. Nhưng hai ông bà hà tiện không dám ăn gà vịt, đem bán ở chợ còn chân giò phơi khô để dành. Bữa cơm chỉ có một ít vừng rang thật mặn, một ít thịt kho rim và một đĩa rau. Hai ông bà thường kêu rằng khó ở, luôn luôn không ăn được.”
A. Keo kiệt, ác điều, hà tiện, tham lam, thiếu tình người
B. Biết tiết kiệm, toan tính, dành dụm để có lúc giúp đỡ người khác
C. Biết vun thém cho cuộc sống gia đình mình
D. Cả A và C
Câu 6. Phát biểu nào sau đây nói lên phương diện chủ đề, ý nghĩa của truyện:
A. Ca ngợi lối sống chu đáo, nghĩa tình trước sau như một của con người
B. Truyện phản ánh những nỗi tủi cực của thân phận con người là nạn nhân của việc cho vay lãi nặng, là tiếng nói đồng cảm, xót thương cho kiếp người ấy. Đồng thời, truyện cũng phê phán kẻ giàu, có thế lực nhưng hà tiện, kiệt ác, lắm điều…, lên án xã hội cũ với nhiều những bất công ngang trái.
C. Phê phán lối sống ganh tị trong xã hội cũ
D. Cả A và B
Đáp án
Câu 1. C => Ngôi kể trong truyện là ngôi thứ nhất xưng “tôi”.
Câu 2. C => Mạch kể chuyện theo trình tự từ hiện tại-quá khứ-hiện tại.
Câu 3. D => Nhân vật chính trong truyện: chị Sen.
Câu 4. C => Nội dung nêu đúng thái độ của nhân vật “tôi” đối với chị Sen qua hai câu văn: Nhân vật “tôi” rất thương cảm chị Sen vì chị phải làm lụng vất vả, nặng nhọc, cực nhục nên nước da sạm nắng, chân tay trở nên xấu xí, cằn cỗi đi.
Câu 5. A => Đoạn văn sau đây gợi sự keo kiệt, ác điều, hà tiện, tham lam, thiếu tình người ở ông bà Cả.
Câu 6. B => Truyện phản ánh những nỗi tủi cực của thân phận con người là nạn nhân của việc cho vay lãi nặng, là tiếng nói đồng cảm, xót thương cho kiếp người ấy. Đồng thời, truyện cũng phê phán kẻ giàu, có thế lực nhưng hà tiện, kiệt ác, lắm điều…, lên án xã hội cũ với nhiều những bất công ngang trái.
Câu 1. Thể loại truyện của tác phẩm trên là?
A. Truyện ngắn
B. Truyện ngụ ngôn
C. Truyện cổ tích
D. Truyện cười
Câu 2. Truyện chủ yếu được kể từ điểm nhìn của nhân vật nào?
A. Nhân vật chị Sen
B. Nhân vật xưng “tôi”
C. Nhân vật bà Cả
D. Nhân vật thầy u chị Sen
Câu 3. Đoạn trích có bao nhiêu nhân vật?
A. 2
B. 3
C. 4
D. 5
Câu 4. Vì sao chị Sen lại phải chịu khổ, bị bà Cả chèn ép đủ đường?
A. Vì bà Cả giàu
B. Vì chị nợ tiền bà
C. Vì thầy chị nợ tiền bà
D. Vì chị là con bà
Câu 5. Trong cuối đoạn trích, bà Cả đã làm điều gì khiến chị Sen e lệ?
A. Tìm chồng cho chị
B. Cho chị 2 đồng bạc may áo cho con
C. Xóa nợ cho chị
Đáp án
Câu 1. A => Thể loại truyện của tác phẩm trên là truyện ngắn.
Câu 2. B => Truyện chủ yếu được kể từ điểm nhìn của nhân vật xưng "Tôi"
Câu 3. B => Đoạn trích có 3 nhân vật xuất hiện: Tôi, chị Sen, Bà Cả.
Câu 4. C => Chị Sen lại phải chịu khổ, bị bà Cả chèn ép đủ đường vì chồng chị thiếu tiền bà Cả.
Câu 5. B => Trong cuối đoạn trích, bà Cả đã cho chị 2 đồng bạc may áo cho con khiến chị Sen e lệ
Câu 1. Khái quát chung về số phận con người nghèo khổ trong xã hội cũ sau khi đọc truyện ngắn trên?
Câu 2. Nhận xét ngắn gọn về nhân vật “chị Sen” trong truyện?
Câu 3. Theo anh/chị mạch trần thuật trong truyện có gì khác với cốt truyện?
Câu 4. Trình bày ý nghĩa của sự đồng cảm, sẻ chia trong cuộc sống hiện nay. (Viết khoảng 5 – 7 dòng)
Đáp án
Câu 1.
- Số phận con người nghèo khổ trong xã hội cũ sau khi đọc truyện ngắn trên:
+Có cuộc sống khổ cục, lâm vào bần cùng, bế tắc không lối thoát phải đi vay lãi nặng và trở thành nạn nhân của tệ nạn ấy.
+ Họ là những con người hiền lành, lương thiện, chất phắc nhưng lại phải chịu nhiều nỗi tủi nhục, áp bức, bất công mà không thể phản kháng
+ Họ là những con người thấp cổ bé họng, đáng thương trong xã hội, họ muốn vươn mình lên nhưng lại bị cường quyền, cái mạnh của đồng tiền làm cho bần cùng, trăm điều khó, luôn trong tinfh trạng lo toan nhiều thứ, nhẫn nhị chịu đựng dù cho có bị chèn ép ra sao.
Câu 2.
- Chị Sen Là nạn nhân đáng thương của bà Cả, của xã hội cũ nhiều bất công ngang trái. Chị là đứa ở để trừ nợ cho thầy, chị chăm chỉ, hiền lành, lương thiện, chịu thương chịu khó nhưng lại phải chịu nhiều sự đối xử cay nghiệt của bà Cả dù cho chị đã rất cố gắng.
- Nhân vật chị Sen chính là một trong những nhân vật phụ nữ trong các truyện ngắn Thạch Lam phải chịu nhiều khổ đau, nhọc nhằn, bất hạnh nhưng vẫn giữ được cho mình những nét đẹp trong tâm hồn, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, kiên cường, cố gắng, nhẫn nhục.
Câu 3.
- Mạch trần thuật trong truyện có phần khác với cốt truyện ở chỗ nó diễn biến từ hiện tại – quá khứ – hiện tại, còn cốt truyện không theo trình tự ấy.
Câu 4.
- Đồng cảm và sẻ chia là những hành động tốt đẹp, cao cả, đáng được trân trọng và cần được lan tỏa trong xã hội. Đồng cảm và sẻ chia sẽ xây dựng nên những mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong công việc, cuộc sống sinh hoạt. Và đồng cảm, sẽ chia sẽ giúp cho người cho đi và nhận lại một cảm giác hạnh phúc, vui vẻ, nhưng người xung quanh cũng học hỏi, xã hội dần trở nên đoàn kết, thể hiện tinh thần tương thân tương ai trong truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên trong xã hội ngày nay vẫn còn có nhiều người chưa thực sự nhận thức được ý nghĩa của đồng cảm và sẻ chia, thế nên chúng ta, những người dân, thành viên của cuộc đồng xã hội hãy lan tỏa ý nghĩa tích cực của đồng cảm và sẻ chia để giúp cho cuộc sống của mỗi chúng ta trở nên hạnh phúc, vui tươi, tốt đẹp hơn.
Câu 1. Xác định ngôi kể trong truyện
Câu 2. Lí do nhân vật chị Sen lại phải đi ở không công cho nhà ông bà Cả?
Câu 3. Chỉ ra kiểu ngôn ngữ nhân vật trong đoạn văn sau:
Chị Sen ở với bà Cả được ngót một năm. Bữa hôm ấy, thấy tiếng bà Cả quát tháo đã lâu, tôi chạy sang. Chị Sen đang cúi đầu vào đống rơm khóc. Tôi hỏi tại sao, chị nức nở đáp:
– Tôi lỡ tay đánh vỡ một cái chén, bà ấy đánh tôi đau quá.
Chị Sen thâm tím cả mình mẩy, một vết roi ấy qua môi làm rướm máu. Chị vừa xoa bóp vừa than thở:
– Bởi thầy u tôi mắc nợ nên tôi mới phải chịu khổ thế này.
Câu 4. Điểm nhìn trần thuật trong đoạn văn sau đây có đặc điểm gì?
Những lúc ấy, các người hàng xóm nghe tiếng bà, lại thì thầm bảo nhau: “Gớm ác nghiệt thế chả trách được không có con. Trời nào cho con những người như thế”, và họ thấy hể hả trong lòng như một sự báo thù. […] Người trong họ ghét bà thường bảo: “Không biết kiệt như thế rồi giữ của để cho ai?”
Câu 5. Nhân vật bà Cả trong đoạn văn sau là người như thế nào?
“Ba người vào lúc ông bà Cả đang ăn cơm.
Thầy chị Sen để bu gà và buồng chuối xuống đất, chắp tay vái:
– Lạy ông bà ạ.
Chị Sen nấp sau bố mẹ, cũng cất tiếng khẽ chào theo. Bà Cả buông đũa, gật đầu đáp lại “tôi không dám”; rồi bảo vợ chồng bác Nhiêu:
– Hai bác ngồi chơi.
Trông thấy chị Sen đứng lẩn vào xó tối, bà Cả hỏi:
– Chị Sen đây à?
Tiếng “vâng” sẽ của chị bị câu nói của bác Nhiêu lấp đi:
– Bẩm vâng. Cháu nó xin lên chào ông bà đấy ạ.”
Câu 6. Nêu ý kiến của anh/chị về tình cảm của Thạch Lam đối với nhân vật chị Sen
Câu 7. Nhận xét về ngôn ngữ kể chuyện trong truyện
Đáp án
Câu 1.
- Ngôi kể trong truyện là ngôi thứ nhất xưng “tôi”.
Câu 2.
- Lí do Chị Sen lại phải đi ở không công cho nhà ông bà Cả vì chị là con một người làng có nợ ông bà Cả; phải đem chị Sen gán làm đứa ở không công.
Câu 3.
- Đoạn văn là ngôn ngữ đối thoại giữa nhân vật chị Sen và nhân vật “tôi”.
Câu 4.
- Điểm nhìn trần thuật trong đoạn trích có đặc điểm: có thay đổi từ người kể chuyện sang điểm nhìn những người hàng xóm, người trong họ, từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong.
Câu 5.
- Nhân vật bà Cả trong đoạn văn sau là người: khi gặp gia đình chị Sen thì bà Cả thể hiện thái độ trịch thượng, khinh rẻ, xem thường qua cái “gật đầu đáp lại”, qua câu nói mang theo sự khách khí “tôi không dám”… của kẻ giàu, kẻ bề trên đối với những con người nghèo khổ, thấp cổ bé họng, những người là nạn nhân của chính gia đình bà.
Câu 6.
- Tình cảm của Thạch Lam đối với nhân vật chị Sen:
+ Nhà văn cảm thấy rất đồng cảm, xót thương đối với thân phận người phụ nữ phải rơi vào hoàn cảnh đi ở không công như chị Sen chỉ để trả nợ cho thầy.
+ Đồng thời Thạch Lam cũng bộc lộ tấm lòng nhân ái đối với cảnh ngộ trớ trêu bị bóc lột sức lao động, bị hắt hủi, đòn roi như chị Sen
+ Nhà văn cũng luôn đặt niềm tin vào khát vọng thay đổi được cuộc đời cho những con người nghèo khổ, chịu nhiều thiệt thòi, bất công như chị Sen khi để cho nhân vật được thoát khỏi gia đình bà Cả, đi lấy chồng có đứa con trai mười bốn tháng tuổi, như ấp ủ nỗi niềm rồi mọi chuyện cũng sẽ tốt đẹp hơn, chỉ cần chúng ta luôn mạnh mẽ, kiên cường, chăm chỉ.
Câu 7.
- Ngôn ngữ kể chuyện của Thạch Lam có sức đọng lớn:
+ Ngôn ngữ tự nhiên, rất đời thường, giàu hình tượng và cảm xúc, rành rõ, gợi một cách chính xác những trạng thái của nhân vật, diễn biến của câu chuyện.
+ Chữ dùng của Thạch Lam không nặng nề, gân guốc, không đao to búa lớn mà luôn thâm trầm kín đáo.
+ Câu chữ vừa đủ để phô diễn cảnh ngộ hoặc tâm trạng cần phô diễn.
+ Và đằng sau những dòng chữ lặng lẽ ấy là bao nhiêu những tình cảm của nhà văn dành cho con người, đôi khi là cả sự dằn vặt của sự thức tỉnh nhân cách con người.