logo

Con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô

Hai câu thơ “Con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô” là hai câu thơ nằm trong bài “Tiếng thu” của thi sĩ Lưu Trọng Lư. Có thể coi rằng đây là một bài thơ nổi tiếng nhất trong cuộc đời thơ Lưu Trọng Lư, được nhiều người nói rằng là bài thơ “thơ” nhất của Việt Nam, nghĩa là ngoài chất thơ ra thì nó không có gì bấu víu, không cõng thêm sứ mệnh nào khác, nó hoàn toàn trữ tình lãng mạn. Ngoài chủ đề chính là mùa thu thì còn có trăng, có chinh phụ chinh phụ, và có con nai vàng ngơ ngác – hình tượng kinh điển trong thi ca. Sau đây, Toploigiai sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về hình ảnh “Con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô” trong tác phẩm Tiếng thu.


1. Giới thiệu về tác giả Lưu Trọng Lư

Lưu Trọng Lư (19 tháng 6 năm 1911 – 10 tháng 8 năm 1991), là một nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Việt Nam.

Lưu Trọng Lư là người làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Thuở nhỏ, ông học trường tỉnh, rồi học ở Huế (đến năm thứ ba tại trường Quốc học Huế) và Hà Nội. Sau đó, ông bỏ học đi dạy tư, làm văn và làm báo để kiếm sống.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia văn hóa cứu  quốc ở Huế. Kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động tuyên truyền văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu IV. Từ sau 1954, ông công tác ở Bộ Văn hóa, Tổng thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Ủy viên BCH Hội nhà văn Việt Nam (khóa II).

Tác phẩm đã xuất bản : Người sơn nhân (truyện – 1933), Chiếc cáng xanh (truyện – 1941), Khói lam chiều (truyện – 1041), Huế, một buổi chiếu (truyện – 1938), Tiếng thu (thợ – 1939), Tỏa sáng  đôi bờ (thơ – 1959), Người con gái Sông Gianh (thơ – 1966), Từ đất này (thơ – 1971), Mùa thu lớn (tùy bút, hồi ký – 1978), Hồng Gấm (kịch thơ – 1973), Tuổi hai mươi (kịch thơ – 1973), Nữ diễn viên niển Nam (kịch hát cải lương), Cây thanh trà (kịch hát cải lương), Xuân Vỹ Dạ (kịch nói), Anh Trổi (kịch nói), Nửa đêm sực tỉnh (hồi ký – 1989)…

>>> Tham khảo: Theo phân tích của tác giả, “tiếng thu” và “tiếng thơ” tương ứng với những bình diện nào trong bài thơ của Lưu Trọng Lư?


2. Bài thơ “Tiếng thu”

"Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

Hình ảnh người chinh phụ

Trong lòng người cô phụ

Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô"

Con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô

>>> Tham khảo: Trình tự của bài viết đi từ “tiếng thu” hay “tiếng thơ”? Theo tác giả, “tiếng thu” trong bài thơ của Lưu Trọng Lư là gì?


3. Ý nghĩa bài thơ Tiếng thu

Lưu Trọng Lư đã mượn không gian, cảnh vật đặc trưng của mùa thu để thể hiện bức tranh tâm trạng chân thực và sống động, sự u buồn và khắc khoải. Bài thơ có những chủ thể trông có vẻ rời rạc và không liên quan gì đến nhau. Ngoài chủ đề chính là mùa thu thì còn có trăng, có chinh phụ chinh phụ, và có con nai vàng ngơ ngác – hình tượng kinh điển trong thi ca. Khi gộp tất các hình tượng đó lại trong một tổng thể thì nó lại có sức lay động lòng người một cách kỳ lạ, những câu chữ như từng mảng màu quết vào nhau tạo thành một bức tranh mùa thu ảo diệu, vừa gần vừa xa, vừa sáng tỏ lại vừa mông lung, người ta chỉ có thể cảm thấy chứ không thể nói ra được rạch ròi.


4. Một số bài văn mẫu phân tích bài thơ tiếng thu

Bài văn mẫu số 1:

Thu thường gợi nhớ cho chúng ta những cảm xúc về những khoảnh khắc vô cùng lãng mạn va cũng vô cùng buồn man mác. Từ trước tới nay chưa bao giờ và cũng chưa lần nào những thi sĩ của Việt Nam ngó lơ những khoảng khắc đáng quí ấy. Và nổi lên đó là bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư với nhận xét là bài thơ thơ nhất của nền văn học Việt Nam.

Những cảm xúc ùa về là một cách dấy lên cảm xúc thật kì diệu và những hình ảnh theo những câu từng chữ nhả ngọc cho những áng văn chương khó tả:

"Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức

Em không nghe rạo rực"

Nhân vật chính ở đây chính là em, em có không nghe mùa thu hay em không nghe rạo rực chính là những câu hỏi tu từ như vừa muốn hỏi em vừa muốn hỏi chính mình tại sao em lại không cảm nhận rõ được điều ấy không cảm nhận được chính những lòng mong ngóng nhớ thương đến từ nơi chiến trường xa xôi. Chính sự cách biệt giữa hậu phương và tiền tuyến đã khiến cho nỗi nhớ nhung một lúc một xa một lúc một gần.

Xa là khi ta nhớ mà em không biết ta nhớ em. xa là khi biết là có thể em biết ta đang mong ngóng chờ đợi tin em mà em lại ngó lơ làm như không biết. ánh trăng đó ánh trăng tròn trịa và vành vạnh son sắt thủy chung đó nay lại không khiến e gợi nhớ tới ta sao. Hay em không rạo rực khi mùa thu đã tới mùa của yêu thương của hẹn nguyền.

Và như một khúc nhạc không lời cất lên giữa rừng thu chiến trận những khúc nhạc đó khiến cho con người chúng ta cũng cảm thấy xa xuyến bổi hổi bồi hồi. Và vẫn là một hình ảnh của em và cảm hứng lãng mạn bao trùm:

“Em không nghe rừng thu

Lá thu rơi xao xác

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?”

Có thể nói đây là đoạn thơ giàu tính nhạc và thơ nhất và tinh tế nhất từ trước tới nay. Cách mà tác giả sử dụng hình ảnh và gieo vần luyến láy ở khổ thơ khiến cho biết bao lòng người rung động. hình ảnh gió thu khiến lá vàng khô rơi trên một màu vàng óng và đặc biệt là hình ảnh của hai câu thơ cuối:

"Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?"

Cái hay của hai câu thơ chính là hình ảnh khiến cho chúng ta vừa có thể cảm nhận nhưng cũng vừa có thể tưởng tượng ra khung cảnh ấy. một khung cảnh giàu tính nhạc và hình ảnh ấy cũng vô cùng đẹp vô cùng thơ mộng. Xuất hiện như một cái duyên chú nai vàng trở thành tâm điểm của mọi sư chú ý, và hình ảnh của chú ngơ ngác tới độ thơ ngây khiến cho tâm hồn ai không khỏi xao xuyến trước hình ảnh đó chứ. Không trực tiếp chứng kiến nhưng nghe như là có tiếng lá khô đang vỡ vụn dưới chân mình…

Với những cảm nhận tinh tế và khác biệt của Lưu Trọng Lư tác phẩm ra đời như một tiếng thơ trong trẻo. và khác hẳn với những cảm nhận của những cảm nhận của những nhà thơ cùng thời, ông đã thổi một hồn thơ mới vào trong những tác phẩm và thơ ca của Việt Nam

Con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô

Bài văn mẫu số 2:

Lưu Trọng Lư là một gương mặt nhà thơ tiêu biểu, đồng thời cũng là người khởi xướng cho phong trào thơ Mới ở Việt Nam, thơ của Lưu Trọng Lư không có sự chau chuốt về ngôn từ, cũng không mượt mà về câu chữ nhưng lại có cái chân thực trong cảm xúc. Ông viết thơ dường như viết ra những dòng cảm xúc, tâm sự, cảm nhận thật nhất của chính mình, cũng có lẽ vì vậy mà nhiều người không đánh giá cao thơ của Lưu Trọng Lư, nhưng nếu cảm nhận được những cái mà ông viết thì lại có một cái đánh giá khác. Một trong những bài thơ được đánh giá là hay nhất của Lưu Trọng Lư, đó chính là bài thơ “Tiếng thu”.

Đánh giá về bài thơ “Tiếng thu”, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng đã từng nhận định đây không chỉ là bài thơ hay nhất trong đời thơ của Lưu Trọng Lư, mà còn là bài thơ “thơ” nhất của thi ca Việt Nam hiện đại. Như vậy, qua cách đánh giá này, ta cũng phần nào hiểu được vị trí và vai trò của “Tiếng thu” trong thơ ca Việt Nam. Qua bài thơ “Tiếng thu”, Lưu Trọng Lư đã mượn không gian, cảnh vật đặc trưng của mùa thu để thể hiện bức tranh tâm trạng đầy chân thực và sống động, đó chính là tâm trạng u buồn, có chút da diết, khắc khoải cảm xúc của nhân vật trữ tình:

“Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức”

Nhân vật trữ tình ở đây không trực tiếp xuất hiện mà chỉ thể hiện qua những lời nói đầy da diết, hướng đến đối tượng “em”. Vì vậy, “em” ở đây có thể hiểu là người thương, người mà nhân vật trữ tình hướng đến trong mọi lời tâm sự. “Em không nghe mùa thu”, câu thơ thật da diết nhưng sao cũng thật buồn, thật khắc khoải, em không nghe được tiếng của mùa thu hay em không thể nghe được? Dù hiểu thế nào ta cũng thấy được khoảng cách trong cách cảm nhận của nhân vật trữ tình và “em”. Mùa thu thường đi vào trong thơ văn với cảm xúc buồn thương bởi sự chia phôi, nhạt nhòa như chính cảnh sắc mùa thu khắc tạc vào lòng người.

Trong không gian mùa thu được gợi mở một cách gián tiếp ấy, hình ảnh ánh trăng cũng hiện ra thật đặc biệt, nó vẫn đẹp như vậy nhưng không gợi niềm hân hoan, vui sướng khi thưởng ngắm. Mà nó lại đẹp lại bởi chính vẻ u sầu “Dưới trăng mờ thổn thức”, câu thơ gợi cho chúng ta liên tưởng đến không gian của một đêm trăng mùa thu, và cũng như chính cái mùa của sự phôi phai thì ánh trăng cũng nồng đượm nỗi buồn. Hay chính tâm trạng buồn của nhân vật trữ tình đã nhuộm cho ánh trăng một vẻ u sầu như vậy. Nhà thơ đã sử dụng từ “thổn thức” để miêu tả ánh trăng, như vậy Lưu Trọng Lư đã xem vầng trăng như là một hiện thân của tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình.

Nó không còn là một vật thể vô tri vô giác của tự nhiên nữa mà đã chan chứa những xúc cảm của một con người, đặc biệt là một con người đang yêu, và phải chịu đựng nỗi đau của sự xa cách đối với người mà mình yêu. Ánh trăng mờ gợi cho ta liên tưởng đến một đôi mắt long lanh, ngấn lệ của một con người đa tình, đang nhớ nhung trong đau khổ, mong chờ. Và chính những giọt lệ trực trào ấy đã khiến cho mọi thứ trở nên nhạt nhòa, không thể nhìn rõ nét, chân thực. Hai câu thơ đầu gợi cho ta liên tưởng đến một đôi lứa yêu nhau, nhưng dường như họ bị ngăn cách, không thể gặp nhau. Vì vậy mà dù làm gì thì cũng nhớ, cũng mong đến đối phương.

“Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người chinh phụ”

Theo dõi dòng tâm sự của nhân vật trữ tình, ta cảm nhận được sự cô độc trong tâm hồn, vì dù có đặt ra những câu hỏi, những sự trách móc đầy tình cảm, nhưng dường như cũng chỉ là tự độc thoại với chính mình. Vì không nghe âm thanh thu về, nên em cũng không cảm nhận được cảm giác rạo rực, không cảm nhận được sự da diết trong cảm xúc, trong tình cảm “Em không nghe rạo rực”. “Rạo rực” chính là sự bồi hồi, đắm say của con người trước những niềm vui, niềm hạnh phúc. Và sự rạo rực này được nhà thơ Lưu Trọng Lư liên tưởng đến hình ảnh của người chinh phụ và người chinh phụ. Giữa họ gắn kết bởi tình cảm vợ chồng gần gũi, tha thiết. Nhưng, cũng chính sự tha thiết, nồng thắm ấy mà khi chia li không tránh được cảm giác đau đớn, mất mát.

Đó chính là hình ảnh mong chờ, khắc khoải của người chinh phụ khi mong ngóng từng chút tin tức về người chồng của mình nơi xa trường. Nỗi nhớ thương ấy càng bị đẩy lên cao trào khi biết nơi người chồng ra đi, đó chính là chiến trường xa xôi, đầy hiểm nguy mà bất kì lúc nào cũng có thể hi sinh mạng sống. Hiểu như thế, ta có thể thấy sự rạo rực mà nhà thơ Lưu Trọng lư nói đến ở đây không chỉ là sự cháy bỏng của tình cảm mà còn là sự đau đớn, lo lắng sự cách li có thể bất chợt ập đến. Hình ảnh người chinh phụ và chinh phụ trong câu thơ, gợi cho chúng ta liên tưởng đến hình ảnh người chinh phu và chinh phụ trong bài thơ “Chinh phụ ngâm khúc” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Ở đó thì hai người bị chia cắt tình yêu đôi lứa, mỗi người mỗi ngả, người ở hậu phương, kẻ ở tiền tuyến. Mong ngóng tin tức của người chồng nên người chinh phụ không một phút giây thôi mong ngóng, trông chờ.

“Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc”

Mùa thu khiến cho những chiếc lá trên tán cây xanh trở nên héo tàn và bay theo làn gió, chỉ để  lại những cành cây khẳng khiu. Đây là một hiện tượng tự nhiên của đất trời, nhưng khi đi vào những trang thơ văn thì nó lại trở thành biểu tượng của sự phôi pha, tàn úa, biểu tượng của sự chia li. “Em không nghe rừng thu”, câu thơ vẫn là cấu trúc “Em không nghe…” được lặp đi lặp lại, thể hiện sự bộn bề của cảm xúc của nhân vật trữ tình. “Rừng” là nơi sinh trưởng và phát triển của cây xanh. Nhưng đồng thời nó cũng là thế giới tình cảm phong phú của nhân vật trữ tình, nơi mà những tình cảm yêu thương, mong nhớ bén rễ và phát triển tươi tốt. Nhưng vào mùa thu, những cây xanh đã rụng lá, giống như thế giới tâm hồn của con người khi thu đến, đó chính là những cảm giác mất mát không tên của cảm xúc, làm khắc khoải, xao động mạnh mẽ trong tâm hồn.

“Lá thu kêu xào xạc” ta có thể hiểu đây là hình ảnh tả thực, đó là những chiếc lá rụng, khi có những cơn gió thổi qua tạo ra âm thanh xào xạc. Nhưng đặt nó trong mối quan hệ với tâm trạng của nhân vật trữ tình thì ta lại có những cảm nhận khác. Tiếng xào xạc của tiếng lá đồng thời cũng là tiếng lòng đầy ngổn ngang của nhân vật trữ tình, mà bất cứ tác động gì, dù là nhỏ nhất cũng khiến cho tâm hồn trở nên thổn thức, đau đớn. Tiếp đó là hai câu thơ cuối, nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh ngỡ như chẳng có chút liên quan đến mạch nguồn cảm xúc, nhưng đây chính là cái chân thực trong cảm nhận, liên tưởng của nhà thơ, thể hiện những ý niệm đầy độc đáo:

“Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”

Đang viết về hình ảnh của khu rừng mùa thu, về những chiếc lá khô bay xào xạc, hình ảnh thơ đột ngột chuyển qua hình ảnh chú nai vàng ngơ ngác “Con nai vàng ngơ ngác”. Người đọc cũng không khỏi thắc mắc, tự hỏi rằng liệu hình ảnh con nai có liên kết, mối liên hệ gì đặc biệt gì đối với toàn bộ bài thơ hay không. Hay đây chỉ là sự chọn lựa đầy vô tình của Lưu Trọng Lư. Nhưng nếu nhìn nhận ở một khía cạnh khác, ta lại có cảm giác hoàn toàn khác biệt. Con nai thường gợi liên tưởng đến sự ngây thơ, trong sáng. Và tình yêu cũng vậy, dù có bao nhiêu đau khổ thì nó cũng mãi đẹp như vậy, trong sáng như vậy. Câu thơ “Đạp trên lá vàng khô” lại thể hiện được sự kiên định cùng niềm tin bất diệt của nhân vật trữ tình của nhân vật trữ tình. Bởi dù có những bộn bề, đau đớn, mất mát thì chỉ cần còn tồn tại một thứ gọi là tình yêu thì có thể vượt qua mọi giới hạn, thử thách.

Như vậy, bài thơ “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư vừa gợi mở cho người đọc một bức tranh mùa thu đẹp nhưng cũng mang đến cảm giác man mác buồn. Đồng thời, qua bức tranh ngoại cảnh lại soi sáng được bức tranh tâm hồn của nhân vật trữ tình, đó là một con người đa tình, luôn đau đáu trong lòng những nỗi nhớ, những khắc khoải, trăn trở về tình yêu. Và tình yêu đó dù có những xa cách, có những bất đồng về cảm nhận nhưng vượt lên tất cả, tình yêu ấy được Lưu Trọng Lư khẳng định với tất cả sự thiêng liêng, to lớn của nó.

------------------------

Trên đây Toploigiai đã cùng các bạn tìm hiểu về hai câu thơ “Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô”. Chúng tôi hi vọng các bạn đã có kiến thức hữu ích khi đọc bài viết này, chúc các bạn học tốt! 

icon-date
Xuất bản : 30/08/2022 - Cập nhật : 09/09/2022