logo

Cảm nhận của em về bức tranh phố huyện lúc chiều tà và tâm trạng của Liên trong hai đứa trẻ

"Hai đứa trẻ" là mẩu truyện ngắn kể về cuộc sống với những số phận cơ cực nơi phố huyện nghèo và nhân vật chính là hai chị em Liên và An. Qua đó, Thạch Lam đã bộc lộ sự trân trọng, niềm thương cảm, nỗi xót xa của ông trước những kiếp người khổ cực cùng với ước muốn nhỏ nhoi, hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Sau đây mời thầy cô và các bạn cùng tham khảo bài văn mẫu Cảm nhận của em về bức tranh phố huyện lúc chiều tà và tâm trạng của Liên trong hai đứa trẻ


Dàn ý cảm nhận của em về bức tranh phố huyện lúc chiều tà và tâm trạng của Liên trong hai đứa trẻ

I. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả Thạch Lam, truyện ngắn Hai đứa trẻ

- Xác định vấn đề cần nghị luận là bức tranh phố huyện lúc chiều tà và tâm trạng của Liên trong hai đứa trẻ

II. Thân bài

- Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn (khung cảnh thiên nhiên, âm thanh, các hoạt động của người dân nơi đây,..)

- Tâm trạng của nhân vật Liên: 

+ Cô bé mới lớn có tâm hồn trong sáng, nhạy cảm

+ Buồn thương cho những số phận nhỏ bé, vất vả 

- Tổng kết lại giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm

III. Kết bài 

Nếu cảm nhận của em về bức tranh phố huyện lúc chiều tà và tâm trạng của Liên trong hai đứa trẻ sau khi học xong tác phẩm.

Dàn ý cảm nhận của em về bức tranh phố huyện lúc chiều tà và tâm trạng của Liên trong hai đứa trẻ

Cảm nhận của em về bức tranh phố huyện lúc chiều tà và tâm trạng của Liên trong hai đứa trẻ


Mẫu số 1

"Hai đứa trẻ" là mẩu truyện ngắn kể về cuộc sống với những số phận cơ cực nơi phố huyện nghèo và nhân vật chính là hai chị em Liên và An. Qua đó, Thạch Lam đã bộc lộ sự trân trọng, niềm thương cảm, nỗi xót xa của ông trước những kiếp người khổ cực cùng với ước muốn nhỏ nhoi, hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. 

Qua lời kể của Thạch Lam và diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên, bức tranh phố huyện bắt đầu với khung cảnh, âm thanh khi thiên nhiên bước vào lúc lúc chiều tàn.

Hình ảnh trời chiều hiện lên, báo hiệu một ngày đã sắp kết thúc "Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn". Một khung cảnh quen thuộc, đẹp rực rỡ đến nao lòng, cùng với đó là âm thanh từ "tiếng trống thu không" xen lẫn tiếng của "ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào" và "tiếng muỗi vo ve". Tất cả như đang hòa vào nhau tạo gợi lên vẻ đẹp yên bình quen thuộc của một buổi chiều tàn quê hương "chiều êm như ru".

Bức tranh thiên nhiên thơ mộng và đẹp đẽ của của quê hương qua ngòi bút của Thạch Lam vẫn giữ nguyên nét giản dị, yên bình, mang đậm linh hồn xứ sở, cảnh đẹp là thế, nhưng qua từng câu văn ta lại thấy thoáng mang một sự buồn tẻ, nhạt nhẽo, tĩnh lặng lạ thường. 

Tiếp theo khung cảnh chợ quê nơi chiều tàn hiện lên. Khi nhắc tới những phiên chợ quê, ta thường liên tưởng về sự nhộn nhịp, tấp nập mang bao không khí rộn ràng, náo nức thế nhưng phiên chợ nơi phố huyện này đã tàn khi mà "Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", "trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía". Cái khung cảnh của khu chợ ấy đã gợi lên cho người đọc thấy cảnh tượng một phố huyện thê lương, tàn tạ, buồn bã tới não lòng, không chỉ vậy, nó còn là biểu hiện cho những đời sống cơ cực, đói nghèo, vất vả, lam lũ của một miền quê trước Cách Mạng.

Thạch Lam không chỉ khắc họa bức tranh phố huyện qua hình ảnh thiên nhiên mà khung cảnh chiền tàn nơi đây mà còn miêu tả cả hoạt động quen thuộc của những kiếp người nhỏ bé, lam lũ nơi phố huyện nghèo.

Hình ảnh được nhà văn bắt gặp đầu tiên là những đứa trẻ hiện, những đứa trẻ ấy không phải đang vui đùa, chạy nhảy trên những thảm cỏ xanh mà là cảnh tượng "mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven cái chợ cúi lom khom trên mặt đất, đi lại tìm tòi". Cuộc sống quá vất vả, khổ cực, chính nghèo đói đã khiến cho những đứa trẻ đáng ra có một cuộc sống ấm no, đầy đủ nhưng giờ đây phải sống kiếp lụi tàn, phải sống, phải kiếm ăn ở những bãi rác cuối chợ "nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại". Và chính Liên khi nhìn thấy cảnh tượng ấy cũng xót xa, thương cảm trước những số phận bất hạnh của chúng, thế nhưng Liên cũng rất bất lực bởi "chính chị cũng chẳng có gì để cho chúng". 

Kế tiếp hình ảnh mẹ con chị Tí hiện lên, Chị Tí xuất hiện khi trời đã dần về tối, chị "đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc". Nhân vật chị Tí cũng là điển hình cho số phận của người phụ nữ Việt Nam, vất vả tần tảo sớm hôm, làm việc ngày đêm. Ban ngày, "chị đi mò cua bắt tép", "từ chập tối cho đến đêm" chị cần mẫn lao động là vì muốn kiếm thêm chút ít nhưng cũng "chả kiếm được bao nhiêu".

Liên thương cảm, xót xa cho số phận chị Tí, khi phải sống một cuộc đời nghèo đói, tăm tối. Thế nhưng, Liên nhận ra cuộc sống của gia đình mình cũng chẳng khá hơn chị là bao nhiêu. Từ khi thầy Liên mất việc, gia đình đã không còn trụ vững ở Hà Nôi, cả nhà đã phải tạm biệt cuộc sống nơi thủ đô nhộn nhịp xô bồ để chuyển về sống ở đây. Nghĩ tới đây, Liên cũng tự thấy thương xót cho chính bản thân và gia đình mình, cô bé ấy dường như đã hiểu sự bế tắc của cha, sự lam lũ, vất vả của mẹ, thương cảm trước sự tù túng khi chính mình và em trai sẽ phải trải qua ngày tháng vô nghĩa của cuộc đời.

Những kiếp sống cơ cực ấy, còn được Thạch Lam khác họa qua bác Siêu, bác Xẩm, cụ Thi điên. Tuy nhũng nhân vật này chỉ là thoáng qua nhưng cũng đã khiến cho người đọc chẳng thể nào quên về những kiếp người nơi hố huyện nghèo đói, tàn tã. Bác Siêu hiện lên quen thuộc cùng với gánh phở trên vai, đòn gánh kêu kĩu kịt vang giữa đêm tối. Không chỉ với Liên và An mà còn là tất cả người dân nơi đây, gánh phở ấy là "một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền". Có lẽ vì vậy, tuy thơm ngon nhưng gánh phở này của bác luôn ế khách. Vậy nhưng bác vẫn rất chăm chỉ, ngày nào cũng nhóm lửa lúc chiều tối, để kịp cho đêm đến thì gánh vào làng. Cuộc sống của bác Siêu hiện lên cũng là cuộc đời đơn điệu, tẻ nhạt, lặp đi lặp những công việc quen thuộc. Gia đình bác xẩm vất vả mưu sinh trên manh chiếu, cũng những nhân vật biểu hiện cho những kiếp người tàn ở phố huyện nghèo này. Gia đình bác chủ yếu kiếm sống bằng nghề hát rong, chẳng có lấy một căn nhà để che mưa tre nắng, khi thì ở tạm dưới gầm cầu, lúc lại dừng chân bên vỉa hè, tài sản của gia đình bác chỉ có chiếu rách với chiếc đàn bầu, chiếc thau sắt. Nhân vật cuối cùng hiện lên là bà cụ Thi điên nghiện rượu. Bà cụ chính là biểu hiện của một kiếp người đã sống gần hết cả cuộc đời nhưng vẫn đói khổ, vẫn thê lương, vẫn tàn tạ. Khép lại bức tranh, bà cụ Thi dần đi vào trong bóng tối cùng "tiếng cười khanh khách".

Nổi bật trong khung cảnh thiên nhiên chiều tàn nơi phố huyện chính là Liên – cô cũng là cư dân sinh sống ở phố huyện nghèo này. Chỉ với khung cảnh chiều tan, ta có thể cảm nhận rõ tâm trạng xót xa, buồn thương, sâu lắng, xuất phát từ sâu thẳm trong tâm hồn nhạy cảm và trong sáng của cô bé. Tâm trạng cô bé Liên hệt như tâm trạng của  phố huyện nghèo này, cứ trầm lắng, buồn bã. Đó là tâm trạng mỏng manh, nhạy cảm là cái buồn của một cô gái mới lớn, xung quanh và mơ hồ với những sự việc diễn ra xung quanh, dù mong manh là vậy nhưng "cái buồn của chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị", "chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn". Tâm trạng của Liên cũng chính là tâm trạng của tác giả Thạch Lam, ông bày tỏ nỗi buồn thương, xót xa, trân quý những kiếp người tàn tạ, thê thương.

Cảm nhận của em về bức tranh phố huyện lúc chiều tà và tâm trạng của Liên trong hai đứa trẻ

Mẫu số 2

Thạch Lam (1910-1942), là một thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn, là con người có tính cách đôn hậu, điềm đạm và tinh tế thế nên các tác phẩm của ông cũng mang cái vẻ trong sáng, giản dị, thâm trầm và sâu sắc. Ông là nhà văn có biệt tài về truyện ngắn, với nội dung thường khai thác những vẻ đẹp của cuộc sống đời thường bình dị ở không gian phố huyện ven đô ngoại thành, vốn là không gian sống quen thuộc của nhà văn trong thời thơ ấu cơ cực, vất vả tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Những ngày tháng ấy đã trở thành dấu ấn không thể phai mờ, trở thành một không gian nghệ thuật thường xuyên trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của Thạch Lam. Về nghệ thuật, ông thường viết những “truyện không có chuyện”, mà sức hấp dẫn trong tác phẩm của ông là đến từ thế giới nội tâm phức tạp của con người, tác giả cố công đi tìm kiếm những vẻ đẹp tâm hồn với những cái xúc cảm mong manh, mơ hồ và tinh tế. Nét nghệ thuật độc đáo ấy đã khiến cho các tác phẩm của Thạch Lam tựa như những bài thơ trữ tình đượm buồn, dẫu là truyện đấy nhưng nó lại mang trong mình chất thơ vô cùng đậm đặc trong từng câu chữ. Hai đứa trẻ nằm trong tập truyện Nắng trong vườn (1938), là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất mang đầy đủ phong vị sáng tác truyện ngắn theo cách riêng biệt của Thạch Lam. Nội dung chính của tác phẩm là khung cảnh phố huyện và bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên với những xúc cảm đặc biệt, sâu sắc nổi bật lên trên cái nền tàn tạ, tối tăm của phố huyện lúc chiều tàn và khi đêm xuống.

Đi vào tác phẩm, điều đầu tiên hiện lên trước mắt độc giả ấy là bức tranh phố huyện lúc chiều tàn, khung cảnh thiên nhiên bắt đầu bằng cái tâm trạng buồn man mác của cô bé Liên trong cái khoảnh khắc ngày tàn, từ đó bức tranh thiên nhiên bắt đầu hiện ra với cái vẻ u buồn, tàn tạ. Không hiểu là cảnh thấm vào hồn người hay là do hồn người lây nhuốm sang cảnh như cụ Nguyễn Du viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, chỉ biết rằng cái buồn của cả người và cảnh rất cân đối và hòa quyện nhịp nhàng với nhau, tạo nên một cái màu truyện buồn man mác, buồn nên thơ. Ở trong tác phẩm Thạch Lam đã cảm nhận bức tranh thiên nhiên bằng cả thị giác và thính giác, cứ mỗi câu văn lại mở ra một cảnh mới, câu trước gọi câu sau. Khung cảnh chiều tàn đã được mở ra bằng các âm thanh từ nhỏ đến to dần, đó là “tiếng muỗi đã bắt đầu vo ve” trong cửa hàng hơi tối, xa hơn nữa là “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” và cuối cùng bao trùm cả không gian, báo hiệu chính thức cái thời khắc ngày tàn ấy là “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”. Tất cả những âm thanh ấy, dẫu có ồn ã, làm xáo động không gian đấy, thế nhưng khi cộng hưởng lại trong tác phẩm nó lại không mang đến cảm giác tươi vui náo nhiệt, mà ngược lại nó gợi ra một không gian rất tĩnh lặng, hoang vắng, mang cảm giác buồn man mác của buổi chiều tà. Điều này ít nhiều làm chúng ta liên tưởng đến bút pháp lấy động tả tĩnh trong thơ ca phương Đông, lấy cái động sắc nét để diễn tả cái tĩnh đang bao trùm lên tất thảy. Đó là những cảm nhận về thính giác, về thị giác Thạch Lam trước hết cảm nhận cảnh chiều tàn thông qua những hình ảnh và màu sắc rất đẹp, rất lãng mạn. Đó là cảnh tượng “phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Hai gam màu đỏ rực, ánh hồng đều là những gam màu rực rỡ, sắc nét thông thường đại diện cho sự vui tươi, sáng sủa, thế nhưng trong trường hợp này chúng lại mang đến những xúc cảm hết sức ảm đạm, bởi những màu sắc ấy ở trong cảnh hoàng hôn chính là báo hiệu cho sự lụi tàn một một ngày, là ánh sáng cuối cùng lóe lên trước khi trời tối hẳn, trước khi cái màu đen của bóng tối chính thức bao trùm trên cảnh vật. Các cảm nhận của thị giác không chỉ dừng lại ở các hình ảnh và màu sắc mà nó còn hiện lên một cách rất nghệ thuật, mang phong cách hội họa thông qua đường nét mà tác giả quan sát một cách tỉ mỉ. Cảnh “Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”, mang đến một cảm giác ảm đạm, gợi ra những nhận thức rất rõ rệt về cái khoảnh khắc chuyển giao giữa ngày và đêm, nền trời thì hơi sáng bởi có ánh hoàng hôn, còn lũy tre làng thì tối lại in hằn rõ vệt trên nền trời, như một bức tranh độc đáo với gam màu tối tăm, gợi ra cảm giác ảm đạm, buồn bã vô cùng. Bên cạnh những cảm nhận về thính giác và thị giác, thì bức tranh thiên nhiên buổi chiều tàn còn được gợi ra một cách tinh tế bởi nhịp điệu câu văn chậm rãi, giàu tính nhạc, giàu hình ảnh ảnh, tổng hòa các yếu tố ấy đã tạo nên một khung cảnh êm dịu, thanh bình tiêu biểu của làng quê Việt Nam. Thêm vào đó, cách miêu tả của Thạch Lam không thiên về tính cầu kỳ kiểu cách mà mang đậm chất giản dị, chân thực, lột tả được cái thần và cái hồn của bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện.

Trên cái nền bức tranh thiên nhiên buổi chiều tàn ấy là bức tranh sinh hoạt của con người nơi phố huyện bao gồm cảnh chợ tàn. Nếu như bức tranh thiên nhiên ở trên được cảm nhận bằng các giác quan là thính giác và thị giác thì ở cảnh chợ tàn tác giả còn cảm nhận bằng cả khứu giác để cho ra những cảm nhận rất sâu sắc và độc đáo. Buổi chợ tàn được tái hiện bằng một âm thanh duy nhất “tiếng ồn ào cũng mất”, trả lại cho phố huyện cái vẻ tĩnh lặng và buồn bã. Bên cạnh đó là hình ảnh “trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía” cùng với cảnh mấy đứa trẻ con tìm bới, nhặt nhạnh những thứ rác rưởi còn sót lại sau buổi chợ, trông vô cùng tội nghiệp, đáng thương, dấy lên trong lòng người nỗi xót xa. Như vậy bức tranh phố huyện lúc chiều tàn nó không chỉ mang vẻ u buồn tịch liêu mà nó còn mang đến một cảm giác tàn tạ, xơ xác và nghèo khổ, để lại một nỗi ám ảnh về cái tối tăm của làng quê Việt Nam thời bấy giờ. Và có lẽ điểm nhấn của cảnh chợ tàn chính là ở những cảm nhận về khứu giác của Thạch Lam “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đó là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Đó rõ ràng không phải là một thứ mùi thơm tho dễ chịu, thế nhưng trong cảm nhận tinh tế, trong tâm hồn đa cảm của Liên đó lại trở thành thứ mùi rất đỗi quen thuộc, gắn bó, thân thiết, là mùi của quê hương xứ xở, là mùi riêng của buổi chợ tàn, đánh dấu trong ký ức của cô bé những xúc cảm sâu sắc. Và trên nền của cảnh chợ tàn chúng ta sẽ thấy hiện lên cảnh những kiếp người tàn. Từ những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ, còn nhỏ tuổi nhưng đã phải lăn vào cuộc sống mưu sinh khắc khổ, nhặt nhạnh từng cái rác rưởi còn sót lại, cho đến mẹ con chị Tí, ban ngày mò cua bắt tép, tối lại mở một hàng nước chẳng có mấy người ghé mua, sống lay lắt, ảm đạm. Rồi bà cụ Thi hơi điên điên nghiện rượu, với tràng cười ám ảnh, có lẽ bà đã phải trải một cuộc đời đầy đau đớn khổ sở, nên đến cuối đời mới trở nên tàn tạ, xơ xác nhường ấy. Và đến chị em Liên, An cũng là những kiếp người tàn, hai đứa trẻ 8,9 tuổi đầu thôi thế nhưng cũng phải sớm tham gia vào công việc mưu sinh của gia đình, với cái gian hàng xập xệ, tạm bợ. Thấp thoáng sau chị em Liên ấy là bóng dáng của người mẹ vất vả, khổ cực làm công việc buôn gạo nặng nhọc. Điểm chung của tất cả những con người nơi phố huyện ấy là sự nghèo khổ, với cuộc sống đơn điệu tẻ nhạt, tù túng, bó hẹp, tối tăm và bế tắc. 

Nổi bật trên bức tranh phố huyện với khung cảnh ngày tàn chợ tàn và những kiếp người tàn ấy là bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên, nhân vật chính của tác phẩm. Liên là một cô bé có tâm hồn tinh tế và nhạy cảm, điều đó thể hiện qua những thay đổi trong tâm hồn của cô khi chứng kiến biến chuyển của thiên nhiên trong khoảnh khắc ngày tàn. Đầu tiên là trong cảm nhận của Liên về “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đó là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Trước một cái mùi ngai ngái, khó chịu như vậy nhưng trong cảm nhận của Liên, trong cái tình yêu thương gắn bó dành cho phố huyện, cho cái mảnh đất mà chị đã gắn bó một thời gian thì Liên lại cảm thấy nó thân thuộc, gần gũi, gắn bó và yêu thương vô cùng. Ngoài ra một chi tiết khác cũng thể hiện cái nhạy cảm tinh tế của nhân vật này ấy là cảm giác của cô khi chứng kiến màn đêm đang dần sập xuống trước mắt “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”. Với một đứa trẻ 9 tuổi đầu, có lẽ nỗi buồn là một cái gì đó còn rất đỗi mơ hồ, thế nhưng với Liên, chị lại cảm nhận được một cách thấm thía, cái buồn của cảnh sắc ngày tàn thấm dần vào tâm hồn non nớt của chị, khiến chị suy tư như một con người trưởng thành. Như đã đề cập không biết rằng là cái buồn của cảnh khiến người đổ bóng buồn theo, hay là do vốn dĩ tâm hồn của Liên đã đượm những nỗi buồn nên cảnh ngày tàn mới trở nên vừa ảm đạm, vừa có gì đó rất nên thơ lãng mạn như vậy. Bên cạnh sự tinh tế trong việc cảm nhận cảnh sắc ngày tàn, thì sự nhạy cảm của Liên còn được thể hiện qua tấm lòng nhân hậu, yêu thương của chị đối với những kiếp người tàn nơi phố huyện. Đối với mẹ con chị Tí thì là sự quan tâm, hỏi han là ánh nhìn thương cảm, ái ngại, xót xa cho cuộc sống vất vả của họ thông qua cái cách mà Liên kể về gia cảnh của chị. Rồi với mấy đứa trẻ con ven xóm chợ là lòng thương xót tội nghiệp là cảm giác bất lực vì chính bản thân chị cũng nghèo, chị cũng không thể giúp đỡ gì cho những đứa trẻ tội nghiệp ấy. Hay đối với bà cụ Thi điên điên, với tiếng cười ám ảnh, Liên có chút sợ hãi nhưng chị vẫn dành cụ sự quan tâm, nó không nằm ở lời nói mà đến từ hành động của chị. Cái cách chị rót chút rượu đầy cho bà cụ như một thói quen, thể hiện sự thơm thảo, để tâm của Liên đối với một người già tội nghiệp, đặc biệt là cảnh chị dõi nhìn theo bóng cụ Thi khuất dần vào đêm tối thể hiện sự xót xa, thương cảm cho một kiếp người tàn tạ, khốn khổ. 

Nối tiếp theo bức tranh phố huyện lúc chiều tàn, chính là bức tranh phố huyện lúc đêm xuống, được tác giả xây dựng bằng hai mảng màu sáng tối, là thủ pháp đặc trưng của văn học lãng mạn, gợi ra một khung cảnh để lại ấn tượng trong lòng lòng người đọc. Bóng tối ở phố huyện hiện lên thông qua hình ảnh “đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Chỉ với hai câu văn ấy thôi nhưng người đọc có thể mường tượng ra cảnh bóng tối hiện diện ở khắp mọi nơi, bóng tối bao trùm lên tất cả, mỗi lúc càng trở nên đặc quánh hơn. Trên cái nền đen đặc ấy có sự xuất hiện của ánh sáng từ nhiều nguồn khác nhau, đó là ánh đèn trong các hình ảnh “khe sáng” lọt ra từ các ngôi nhà, “quầng sáng” lay động trên ngọn đèn của chị Tí, rồi thì những “hột sáng” của các ngọn đèn vặn nhỏ, yếu ớt và thưa thớt. Sau là nguồn sáng của bếp lửa bác Siêu “chiếu sáng một vùng đất cát”, nhạt nhòa. Rồi ánh sáng của sao trời lấp lánh, những vệt sáng của loài đom đóm cũng góp thêm vào cái nguồn sáng trong đêm nơi phố huyện. Tất cả những thứ ánh sáng với nhiều sắc độ và hình thù ấy đều mang một điểm chung ấy là sự yếu ớt, le lói, mong manh, không đủ sức chiếu sáng màn đêm, xuyên thấu màn đêm, dường như đang bị bóng đêm nuốt chửng. Những ánh sáng chập chờn ấy chỉ tô đậm thêm cái tối tăm vô tận, cái bế tắc mù mịt của màn đêm nơi phố huyện này. Thạch Lam muốn truyền tải một ý nghĩa rằng ánh sáng chính là tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh và lay lắt ở phố huyện, còn bóng tối chính là tượng trưng cho cái cảnh bế tắc, quanh quẩn, tối tăm mênh mông của xã hội cũ, đang nuốt chửng những kiếp người nghèo khổ, yếu ớt.  

Trong bức tranh phố huyện lúc chiều tối cũng có sự xuất hiện của những kiếp người với cuộc sống khốn khổ, nghèo nàn ấy là vợ chồng bác Xẩm với “tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng” đứa con thì bò ra ngoài đất nghịch ngợm những rác bẩn, một thứ âm thanh thê lương, với cảnh tượng đầy xót xa tội nghiệp, gợi lên cái cuộc đời nghèo khổ, bần hàn của hai vợ chồng. Chị Tí ngồi cầm cành chuối khô phe phẩy đuổi ruồi, đã vẽ ra cảnh tượng quán hàng ế khách, vắng lặng và thiểu não. Bên cạnh đó còn có nhân vật bác Siêu với gánh phở nghi ngút khói, với bếp lửa bập bùng trong đêm tối, thế nhưng thức quà sang chảnh ấy xuất hiện ở cái phố huyện nghèo này thì cũng chẳng thể khá khẩm nổi vì chẳng ai có tiền mà thưởng thức. Nó trở thành niềm mơ ước khó thành hiện thực của cư dân ở đây và cũng trở thành nguyên do khiến gánh hàng ế ẩm, chán ngán không khác gì với chị Tí với bác Xẩm là bao. Còn chị em Liên, lại bị bó buộc trong cái gian hàng xập xệ, không được hòa nhập vào cuộc vui như bao đứa trẻ khác, ngày này qua ngày khác chán chường trên chiếc chõng tre sắp gãy nát. Và giữa một khung cảnh tối tăm bế tắc ấy có một đốm sáng hiện lên “chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”, đó là ước mơ về sự đổi đời, nhưng rất mơ hồ.

Ở bức tranh phố huyện lúc đêm tối, thì bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên hiện lên với hai điểm sáng chính. Đầu tiên là sự rung cảm tinh tế trước những cảnh sống xung quanh, ấy là sự tưởng tượng thú vị khi ngước mắt nhìn lên bầu trời đêm đầy ánh sao lấp lánh với những vệt sáng của đom đóm, nghĩ về một thế giới cổ tích xa xăm. Rồi sự quan sát rất tỉ mỉ, nhạy bén phát hiện được những sự biến chuyển của cuộc sống trong chi tiết các loại nguồn sáng với đủ hình dạng, kích thước, sắc thái. Bên cạnh đó, sự nhạy cảm, tinh tế trong tâm hồn Liên còn thể hiện ở ước mơ về sự đổi đời, thể hiện trong việc cô bé luôn hướng về nguồn sáng, hướng về những ánh sáng hiện diện nơi phố huyện, nhớ về ánh sáng ở Hà Nội, cuối cùng là tìm kiếm thứ ánh sáng rực rỡ ở đoàn tàu đêm, để thoát khỏi cái thế giới tăm tối, bế tắc nơi phố huyện. 

Và bức tranh cuối cùng mà Thạch Lam xây dựng ấy là bức tranh phố huyện khi đoàn tàu đến và đi qua. Chuyến tàu đêm ấy không chỉ là nỗi mong chờ, ao ước của chị em Liên mỗi đêm mà là của cả những con người khốn khổ nơi phố huyện. Chính vì thế ngay khi có những dấu hiệu đầu tiên bác Siêu đã vội reo lên với chất giọng sung sướng “Kìa đèn ghi đã ra kia rồi”. Thế rồi tiếng còi của xe lửa kéo dài theo ngọn gió xa xôi, “một làn khói trắng bừng sáng lên từ đằng xa”. Khi đoàn tàu đến cả Liên và An đều đứng hẳn dậy mắt hướng theo chỗ đoàn tàu đang tới với sự say mê và thích thú khôn cùng. Đoàn tàu xuất hiện với những âm thanh ““tiếng dồn dập, rít mạnh vào ghi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên và tàu rầm rộ đi tới”, đó đều là những âm thanh thực sự rộn ràng và náo nhiệt khác hẳn với những âm thanh buồn tẻ, chậm rãi nơi phố huyện. Cùng với âm thanh thì đoàn tàu tới còn mang đến những chuyển động hết sức mạnh mẽ “tàu rầm rộ đi tới”, “đoàn xe vụt qua” cũng mang lại sắc thái khác hẳn với những chuyển động rời rạc, chậm chạp, khẽ khàng và chán nản của phố huyện. Đặc biệt nhất đó là hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với thứ ánh sáng “toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường… đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng” khác hoàn toàn so với những thứ ánh sáng tù mù, le lói, từng hột, từng vệt, từng khe tỏa ra từ chiếc đèn dầu vặn nhỏ hay cái bếp củi đang cháy. Thứ ánh sáng ấy thực sự là thứ ánh sáng rực rỡ, kèm theo cả sự sung túc giàu có trái ngược với cái tối tăm, nghèo khổ nơi phố huyện, nó kéo về trong tâm trí Liên ký ức về một vùng thủ đô văn minh, về cuộc sống sung túc thuở ấu thơ mà chị từng được hưởng, đem lại những kỷ niệm đẹp đẽ của một thời đã xa. Thế rồi khi đoàn tàu đi qua hai đứa trẻ cứ đứng nhìn theo mãi, cho đến khi những dấu hiệu cuối cùng của đoàn tàu cũng biến mất vào đêm đen. Sau cái ánh nhìn đây tiếc nuối ấy Liên bắt đầu lặng mình đi trong mơ tưởng. Đoàn tàu ấy đi qua đã để lại trong lòng cô bé rất nhiều cảm xúc, Liên nghĩ về Hà Nội, bởi đoàn tàu ấy từ thủ đô về nó đã mang một chút thế giới khác đi qua, một thế giới mà Liên vẫn hằng ao ước. Thế nhưng đoàn tàu hôm nay dường như kém sáng hơn hôm qua, điều ấy cho thấy có vẻ như cuộc sống đã ngày càng bế tắc và khó khăn hơn, đến cả cô bé Liên cũng cảm nhận được điều ấy. Thế rồi sau những giây phút mơ tưởng Liên bắt đầu quay về với thực tại nhìn ra xung quanh “chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn”, tiếp tục một cái khung cảnh vắng lặng, màn đêm thì đặc quánh. Còn những con người thì rệu rã, chậm rãi thu xếp đồ ra về, buồn bã, mệt mỏi. Dường như chuyến tàu đi qua như là ánh sao băng vụt sáng đầy hy vọng, thế nhưng đi qua rồi thì trả lại là một thế giới thậm chí còn vắng lặng, chán chường và bế tắc, tăm tối hơn.

Đọc hết Hai đứa trẻ, người ta chẳng nhìn thấy một cốt truyện nào rõ ràng, thế nhưng thu hút người đọc nhất lại là ở bức tranh phố huyện nghèo nàn qua các mốc thời gian, qua các chuyển biến nho nhỏ, vừa lãng mạn, nên thơ nhưng cũng nhuốm màu buồn bã. Hiện lên trên nền bức tranh ấy là hình ảnh cô bé Liên với tâm hồn rất đỗi tinh tế với những xúc cảm mơ hồ, thế giới nội tâm phong phú, cùng với những khao khát hướng về ánh sáng, hướng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, rất đáng trân trọng. Thế nhưng, chỉ mơ ước thôi là chưa đủ, người ta còn cần làm gì đó nữa để thực hiện ước mơ ấy, điều đó đã để lại trong lòng độc giả những cảm xúc băn khoăn, trăn trở về số phận những kiếp người tàn nơi phố huyện. Bao giờ họ mới có thể đạt tới ước mơ của mình, Liên và An có thể có một sống khác tốt đẹp hơn không?


Mẫu số 3 

Thạch Lam là cây bút trưởng thành trong nhóm Tự lực văn đoàn với phong cách sáng tác không thể lẫn lộn với bất cứ nhà văn nào. Những trang viết của ông nhẹ nhàng, sâu lắng, man mác và dìu dặt. Đó như là những lời tâm tình thủ thỉ nhưng lại có sức ám ảnh đối với người đọc. Những câu chuyện ông kể thường không có cốt truyện, bởi mọi thứ được viết bởi một chất liệu nhẹ và sâu nhất. "Hai đứa trẻ" là một câu chuyện như vậy. Truyện ngắn này đã vẽ lên bức tranh phố huyện nghèo với những mảnh đời nghèo khó, cơ cực trong xã hội.

Thạch Lam luôn khiến cho người đọc nhận ra được sự tinh tế trong tâm hồn, trong những câu văn. Sự nhẹ nhàng đã làm nên nét độc đáo trong văn của Thạch Lam. "Hai đưa trẻ" là câu chuyện xoay quanh cuộc sống của An và Liên tại phố huyện nghèo với những công việc nhàn nhạt được lặp đi lặp lại hằng ngày. Cũng qua hai nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc nhiều thông điệp về cuộc sống, về những khó khăn mà con người đã trải qua.

Chất liệu làm nền cho câu chuyện chính là khung cảnh phố huyện nghèo luôn chấp chới, ẩn hiện trong mỗi trang viết. Có lẽ chính bức tranh là gợi nên cảm hứng để Thạch Lam bày tỏ cảm xúc của mình. Và có phải đây chính là phố huyện nghèo Cẩm Giàng - nơi mà ông đã sinh ra và lớn lên.

Khung cảnh phố huyện nghèo hiện lên ở những câu văn đầu tiên "Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ, từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều...". Một tiếng trống vang lên trong một buổi chiều sắp tàn, và có lẽ cảnh vật và con người đang đắm chìm vào trong trạng thái lơ đãng. Tại sao tác giả lại lựa chọn một buổi chiều mùa thu để làm cảm hứng vẽ lên bức tranh phố huyện? Là bơi mùa thu luôn gợi buồn, gợi nhớ, gợi nhiều xúc cảm nhất. Hình ảnh hai đứa trẻ xuất hiện với những công việc thường ngày "thắp đèn" rồi "đóng quan" và ngắm nhìn đoàn tàu chạy từ Hà Nội trở về, vụt sáng lên và rồi lại rơi vào hụt hẫng.

Hình ảnh phố huyện buổi chiều tà được tác giả phác họa qua những chi tiết "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tường là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu". Đó chính là khung cảnh của khu phố nghèo lúc ngày đã tàn, một sự héo úa, tàn phai và cả sự tiêu điều hiu quạnh hiện lên trước mắt người đọc. Có lẽ đây chính là hiện thực thời bấy giờ ở miền bắc nước ta. Mọi thứ dường như chông chênh, không điểm nhấn, không sức hút và dường như không có sự sống. Tất cả chỉ là những điều bình dị, gần gũi nhưng lại phảng phất nghèo đói.

Những câu văn mềm mại, mượt mà diễn tả một không gian đìu hiu, vắng lặng ở phố nghèo. Trên cái nền u ám đó xuất hiện bóng dáng những đứa trẻ nghèo "Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được. Liên động lòng nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng". Một bức tranh thêm ảm đảm hơn khi những con người nghèo khổ xuất hiện, dường như đã nhân đôi cái nghèo, cái khốn khó của mảnh đất này. Và người đọc thấy toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Liên, thánh thiện và cao cả.

Trong bức tranh làng quê nghèo ấy còn có rất nhiều số phận khác nữa, tất cả đã tạo nên sự hỗn độn của phố huyện buổi chiều tàn. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tí dọn hàng nhưng "chả kiếm được bao nhiêu". Hay chính là hình ảnh của chị em Liên từ khi dọn về phố nghèo này, hai chị em bán hàng giúp cho mẹ trên một gian hàng bé thuê lại của người khác, một tấm phên nứa dán giấy nhật trình.

Những con người lẳng lặng, những con người cần mẫn lặng nhìn cái nghèo đói diễn ra trước mắt nhưng cũng không thể làm gì được.

Xen lẫn những con người nghèo khổ vật chất còn là hình ảnh bà cụ Thị bị điên vẫn thường hay mua rượu tại cửa hàng nhà liên. Hình ảnh bà cụ thi "ngửa cổ uống một hơi sạch, đặt 3 xu vào tay liên và lảo đảo bước đi" khiến người đọc chạnh lòng về một khiếp người, một đời người dật dờ, không bến đỗ.

Giữa chốn phố huyện này, dường như ai cũng mong ngóng một chuyến tàu từ Hà Nội chạy về đây mang theo sự ồn ào, huyên náo và tấp nập hơn nữa. Có lẽ chuyến tàu có ý nghĩa to lớn đối với những phận người nơi mảnh đất này. Bởi "con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua"/ Đó có thể là thế giới có sự phồn hoa ngày xưa của hai chị em Liên, có cuộc sống sung túc và bình an hơn.

---------------------------------------------------------

Trên đây, Toploigiai đã cung cấp cho các bạn dàn ý và bài văn mẫu Cảm nhận của em về bức tranh phố huyện lúc chiều tà và tâm trạng của Liên trong hai đứa trẻ. Hi vọng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình học tập. Chúc các bạn đạt kết quả tốt trong các kì thi sắp tới.

icon-date
Xuất bản : 26/01/2023 - Cập nhật : 28/08/2023
/* */ /* */
/*
*/