logo

Cảm nghĩ bài Tựa Trích diễm thi tập lớp 10

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Cảm nghĩ bài Tựa Trích diễm thi tập lớp 10. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! 

Cảm nghĩ bài Tựa Trích diễm thi tập lớp 10 (ngắn gọn, hay nhất)

Cảm nghĩ bài Tựa Trích diễm thi tập - Bài mẫu 1

Nói đến Hoàng Đức Lương là phải nói đến bộ sách Trích diễm thi tập. Đây là bộ sách được ông biên soạn xong vào năm Hồng Đức thứ 28 (1497). Bộ sách khép lại cả một thời kỳ dài sưu tập thơ văn Lý - Trần từ Phan Phu Tiên với Việt âm thi tập đến Dương Đức Nhan với Tinh tuyển chư gia luật thi. Ý nghĩa của Trích diễm thi tập xưa nay từng được đánh giá rất cao, ở chỗ sau chính sách hủy diệt văn hóa tàn khốc của nhà Minh hồi đầu thế kỷ XV, thì đến thập niên cuối thế kỷ, Hoàng Đức Lương đã có công tìm kiếm, lưu chép cho hậu thế đến 15 cuốn (trên thực tế chỉ còn 6 cuốn) về thi ca các triều đại trước Lê sơ. Sau này nhiều nhà sưu tầm, nghiên cứu khác từ cổ đến cận, hiện và đương đại cũng đã phải dựa vào đó rất nhiều để tiếp tục bồi đắp vốn văn chương cổ. Do đó, ngoài ý nghĩa văn học sử, Trích diễm thi tập còn có ý nghĩa to lớn đối với văn hóa, văn hiến nước nhà.

Quan trọng nữa là bài Tựa viết ở đầu sách. Giới nghiên cứu và bạn đọc về sau đều hết sức tán thưởng lời Tựa Trích diễm thi tập. Ở thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn đã trích dẫn một đoạn dài trong Lệ ngôn của Toàn Việt thi lục. Đến thế kỷ XX, bài Tựa cũng được dịch và giới thiệu nhiều lần.

Trước hết, tác giả nêu bật được một quan niệm về thơ bằng cách dùng hình ảnh so sánh thú vị: "Đối với thơ ca, người xưa thường ví với nem chả, hoặc ví với gấm vóc. Nem chả là vị rất ngon ở đời, gấm vóc là mầu rất đẹp ở đời. Phàm người có miệng, có mắt, ai cũng quý trọng, mà không vứt bỏ khinh thường. Có điều là: sắc đẹp của thơ lại ở ngoài mọi sắc đẹp, mắt thường không thấy được; cũng vậy, vị ngon của thơ lại ở ngoài mọi vị ngon, miệng thường không nếm thấy. Chỉ có thi nhân mới có thể thấy được sắc đẹp đó, nếm được vị ngon đó". Như thế Hoàng Đức Lương cho rằng thơ là phải đẹp, mà phải "ở ngoài mọi sắc đẹp", nghĩa là cái đẹp thông thường theo quan niệm của người đời là không thể so được. Lão Tử thường nói: "Thiên hạ tri mĩ vi mĩ tư ố hĩ" (Cái gì thiên hạ biết là đẹp, tức là đã không còn đẹp nữa rồi). Vậy, vẻ đẹp của thơ phải là vẻ đẹp mang tính vĩnh cửu, nó không bị biến chất, không bị mọi thứ tư duy thông thường xâm thực. Thơ không theo quy luật chung của cái đẹp thông thường. Thơ đã thế, người làm ra thơ cũng là loại người đặc biệt khác thường mới có thể "thấy" và "nếm" được thơ. Ở đây, theo quan niệm của Hoàng Đức Lương thì thi nhân vừa là người sáng tác, vừa là người thưởng thức, phê bình. Quan niệm như thế nên khi làm sách Hoàng Đức Lương chỉ Trích diễm, tức là chỉ chọn lựa cái hay, cái đẹp. Xem qua có vẻ như tác giả đã "tuyệt đối hóa" vai trò của thơ và của thi nhân, nhưng ngẫm kỹ thì dường như ông đã có lý. Thơ đối với cổ nhân đúng là một địa hạt đặc biệt, sau này Ngô Thì Sĩ cũng cho rằng kẻ phàm không vào thơ được. Hơn nữa, quan niệm của Hoàng Đức Lương còn tiến một bước xa trên con đường nhận thức thơ. Khi viết Tựa cho Việt âm thi tập vào năm 1433, Phan Phu Tiên cho rằng: "Trong lòng có chí hướng gì ắt thể hiện ra lời nói, cho nên thơ là để nói lên cái chí của mình. Lời xướng họa giữa vua tôi đời Đường - Ngu và câu ca dao dân gian thời Liệt quốc, mặc dù trong đó dấu vết thời thịnh trị và loạn lạc không giống nhau, nhưng cảm xúc phát ra từ trong lòng thì chỉ là một". Thì đó vẫn chỉ là một cách diễn đạt khác của quan niệm "thi dĩ ngôn chí" (thơ là để nói chí). Quan niệm đó đúng và sau Phan Phu Tiên, thơ vẫn là như vậy.

Nhưng rõ ràng, cạnh việc nói chí thì thơ bao giờ cũng là địa hạt của xúc cảm thẩm mĩ, của cái đẹp. Có thể Hoàng Đức Lương còn đi xa hơn cả quan niệm của chúng ta hiện nay khi ông cho rằng cái đẹp của thơ còn "ở ngoài mọi sắc đẹp" như đã nói trên.

Tiếp theo, bài Tựa còn đưa ra quan niệm về sự tiếp nhận, lưu truyền văn học, về thi học và phần nào là vấn đề tự do văn học. Sự tiếp nhận văn học, nói như ngôn từ hiện nay, thì ở người xưa là việc thẩm bình, cái mà tác giả đã gọi là nếm và thấy. Tức là yêu cầu người tiếp nhận phải có cả năng khiếu và năng lực, cũng có ý chỉ người tiếp nhận phải ở một trình độ cao, phải có một tầm đón nhận tương xứng. Biết sáng tác thơ và hiểu thơ là khó, nhưng tác giả vẫn muốn công việc sưu tập của mình "cốt được truyền bá rộng" di sản thơ Lý - Trần. Hẳn là có khao khát muốn bồi bổ, nâng cao năng lực tư duy, năng lực thẩm mĩ cho các thế hệ người đọc bằng thơ. Khái niệm thi học mà Hoàng Đức Lương dùng có ý chỉ cách học, phép làm thơ, nhưng cũng có thể hiểu là việc nghiên cứu tìm hiểu thi ca (Đức Lương thi học duy thị Đường chi bách gia - Thi học của Đức Lương tôi, duy chỉ dựa vào các thi gia đời Đường). Lê Quý Đôn rất tinh tường khi nói về Hoàng Đức Lương là người cực thích thi học ("khốc hiếu thi học"). Do đó, có thể thấy ngay từ thế kỷ XV, Hoàng Đức Lương đã nói đến vấn đề thi học, một trong những vấn đề cốt tử của thi ca. Khái niệm thi học bấy giờ nghĩa có thể chưa rộng như ngày nay, nhưng quả là cái gốc rễ thì đã thấy rõ. Bài Tựa cũng nêu ra một thực tế: "Qua sách vở thời Lý - Trần truyền lại đến ngày nay, chỉ thấy sách nhà chùa là nhiều. Thật ra, đâu có phải vì các nhà Nho học không giỏi bằng các nhà Phật học. Mà chính là trong nhà chùa không có sự cấm đoán in sách, cho nên mới có bản khắc truyền về sau. Còn thơ ca của các nhà Nho nếu như chưa được nhà vua cho phép, thì không được in ra để lưu hành" . Đó là sự chặt chẽ và lề luật quá nghiêm khắc đương thời. Toàn bộ thơ văn phải qua tay kiểm duyệt của một ông vua. Mặc dù nhà vua có cả một đội ngũ để giúp việc, nhưng việc "dắt bò qua cổ chai" đó đã khiến thơ văn mất hẳn sinh sắc. Người sáng tác lúc nào cũng nơm nớp húy phạm, nơm nớp câu chuyện "văn tự ngục". Thể chế đã luôn câu thúc và kiềm chế sự hồn nhiên và hồn toàn của văn thơ, khiến văn thơ buộc phải có hình hài và đặc tính khu biệt. Nghĩa là phải tìm ra rất nhiều hình thức thể hiện khác nhau để che đậy, giấu đi điều muốn nói.

Sau cùng bài Tựa của Hoàng Đức Lương cũng đề cập đến thực trạng của tư liệu thơ văn ngay ở thời của ông (thế kỷ XV). Tác giả đã nêu ra bốn lý do khiến văn thơ mất mát: người sành thơ không nhiều là một, cái sự quá nghiêm khắc kia là hai; và hai lí do quan trọng nữa là: Không có người làm công việc sưu tập và nếu có cũng không làm đến nơi đến chốn. Ông cũng đề cập đến sự tàn phá của thời gian và "binh hỏa", nhưng lỗi chủ yếu vẫn là con người; và ông cũng thể hiện tâm sự của mình: "Mỗi khi nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát được một vài câu, thường cầm sách than thở, có ý đổ lỗi cho tiền nhân thời bấy giờ. Than ôi! Một nước văn hiến, trải mấy nghìn năm xây dựng, lẽ nào không có quyển sách nào để làm chứng tích, mà phải tìm đọc xa xôi qua thơ Đường, như thế chẳng đáng đau xót lắm sao".

Tóm lại qua lời Tựa và qua Trích diễm thi tập có thể khẳng định Hoàng Đức Lương có tư cách một nhà sưu tập, phê bình văn học. Những ý kiến mà tác giả đề xuất còn có tác dụng gợi mở về lý luận thơ ca. Trong khi lý luận, phê bình văn học của ta ở vào thế kỷ XV còn khá nghèo nàn, thì đó là những đóng góp rất đáng quý.


Cảm nghĩ bài Tựa Trích diễm thi tập - Bài mẫu 2

Hoàng Đức Lương đỗ Tiến sĩ năm Mậu Tuất 1478, soạn thảo cuốn "Trích diễm thi tập", gồm có 6 quyển. Có thể xem đây là một tuyển tập thơ nước ta ra đời sớm nhất đã được khắc ván in dưới thời Hông Đức vua Lê Thánh Tông. Bài tựa "Trích diễm thi tập" được Hoàng Đức Lương viết vào mùa xuân năm thư 28, niên hiệu Hồng Đức (1497). Qua bài tựa ông nói lên quá trình tuyển chọn thơ, biểu lộ niềm tự hào, lòng trân trọng và ý thức bao tồn di sản văn học của dân tộc.

Lí do thứ nhất là sắc đẹp của thơ ca "ở ngoài mọi sắc đẹp, mắt thường không thấy được"; vị ngon của thơ ca "ở ngoài mọi vị ngon, miệng thường không nếm thấy". Ông khẳng định thơ ca là sản phẩm tinh thần rất đặc biệt, "chỉ có thi nhân mới có thể thấy được sắc đẹp đó, nếm được vị ngon đó". Vì thế "khiến thơ ca không lưu truyền đầy đủ được ở đời".

Lí do thứ hai là thơ ca của các bậc giai nhân, tài tử thời Lí, Trần đã góp phần tô đẹp nền văn hiến Đại Việt, nhưng vì các bậc danh nho làm quan to vì bận rộn công việc triều đình mà "không có thì giờ để biên tập", còn các quan viên cấp thấp, vì "lật đật lo thi cử, hoặc lo công việc hằng ngày" nên "không để ý", vì thế "thơ ca không lưu truyền đầy đủ ở đời".

Lí do thứ ba là có thể cũng có người đã từng sưu tập thơ ca, nhưng vì thấy "trách nhiệm nặng nề, rồi lượng sức mình yếu kém rồi bỏ dở", nên khiến "thơ ca không lưu truyền đầy đủ được ở đời".

Lí do thứ bốn là ở nước ta, chỉ nhà chùa mới được tự do khắc ván in sách, còn các nhà Nho, nếu như chưa được nhà vua cho phép, thì không được in ra để lưu hành nên đã "khiến thơ ca không lưu truyền đầy đủ ở đời".

Qua đó, ta thấy Hoàng Đức Lương đã sử dụng thao tác liệt kê và phép quy nạp để thuyết minh và giải thích bốn lí do "khiến thơ ca không lưu truyền đầy đủ ở đời". Sau hơn năm thế kỉ, chúng ta có ít nhiều phân vân về lí do thứ nhất mà Hoàng Đức Lương đã nêu. Ngoài bốn lí do mà ông đã nêu ra, chúng ta cảm thấy còn thiếu một số lí do quan trọng nhất mà thơ ca nước nhà "không lưu truyền đầy đủ ở đời". Đó là chính sách đồng hóa vô cùng thâm hiểm của Thiên Triều, nhất là của giặc Minh đã thi hành một chính sách cướp, phá, đốt vô cùng dã man:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ"

(Bình Ngô đại cáo)

Triều Minh đã nhiều lần ra lệnh cho bọn Trương Phụ, Hoàng Phúc ra tịch thu, tiêu hủy thứ sách vở và phá hủy bia đá của ta. Chúng còn bắt nhân dân ta phải thay đổi cả phong tục tập quán cho đến cả cách ăn mặc cũng phải theo lối phương Bắc. Phan Huy Chú trong cuốn Lịch triều hiến chương văn tịch chí cho biết giặc Minh không những đã đốt của nhân dân ta hàng núi sách mà còn cướp "mất trên một trăm bộ sách quý giá thời Lí, Trần".

Giặc Minh chiếm nước ta năm 1407. Hoàng Đức Lương viết bài Tựa "Trích diễm thi tập" năm 1497, nghĩa là 90 năm sau, không biết vì sao nhà soạn giả không nói đến lí do này? Phần thứ hai của bài tựa, Hoàng Đức Lương nói lên tâm trạng của mình "phải than thở" khi học làm thơ "chỉ dựa vào các nhà thơ đời Đường mà thôi, còn thơ văn ta thời Lí - Trần thì không khảo cứu vào đâu được". Ông vô cùng đau xót trước hiện trạng "một nước văn hiến, trải mấy nghìn năm xây dựng, lẽ nào không có một quyển sách để làm chứng tích, mà phải tìm đọc xa xôi qua thơ ca thời Đường…". Có thể nói đó là tâm trạng của một con người, một kẻ sĩ giàu tinh thần dân tộc, tự tôn và tự cường cao độ. Phần thứ ba, Hoàng Đức Lương khiêm tốn nói lên quá trình sưu tập chọn lọc sắp xếp… để làm nên Trích diễm thi tập được sáu quyển, vốn biết "công việc thì nặng nề, mà khả năng còn hạn chế…".

Bài Tựa "Trích diễm thi tập" được Hoàng Đức Lương trình bày một cách sáng sủa, khúc chiết về lí do ông biên soạn nên công trình thơ ca này. Cái tài và cái tâm của ông đã góp phần to lớn vào công việc bảo tồn di sản thơ ca của dân tộc. Trích diễm thi tập là một công trình văn học vĩ đại góp phần tô đẹp nền văn hiến Đại Việt với tất cả lòng yêu nước, tự hào.

---/---

Trên đây là Cảm nghĩ bài Tựa Trích diễm thi tập lớp 10 do Top lời giải sưu tầm được, mong rằng với nội dung tham khảo này các em có thể triển khai bài văn của mình tốt nhất, chúc các em học tốt môn Văn!

icon-date
Xuất bản : 17/03/2021 - Cập nhật : 21/03/2021