logo

Cảm hứng yêu nước hào khí Đông A trong bài Phú sông Bạch Đằng

Tình yêu quê hương, cảm hứng yêu nước trong Phú sông Bạch Đằng thể hiện rõ nét nhất ở sự tự hào với những chiến công hiển hách của ông cha trên dòng sông lịch sử. Đồng thời cảm hứng yêu nước thông qua lời thuật lại các trận chiến vang dội trên sông Bạch Đằng của các bô lão. Vì vậy, Cùng Top lời giải phân tích Cảm hứng yêu nước hào khí Đông A trong bài Phú sông Bạch Đằng các bạn nhé!


Dàn ý phân tích Cảm hứng yêu nước hào khí Đông A trong bài Phú sông Bạch Đằng

1. Mở bài

- Sơ lược tác giả, tác phẩm và cảm hứng yêu nước trong bài.

2. Thân bài

a. Cảm hứng yêu nước thể hiện qua cách nhân vật "khách" nhìn nhận vẻ đẹp của sông Bạch Đằng:

- Cảnh tượng hùng vĩ, rộng lớn, vẻ đẹp bao la khoáng đạt của một con sông qua câu "bát ngát sóng kình muôn dặm".

- Vẻ thơ mộng, dịu dàng của dòng sông trải dài với những con thuyền nối tiếp nhau thật duyên dáng và yểu điệu trong "thướt tha đuôi trĩ một màu".

- "Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu", lại cắt nghĩa ra được một vẻ đẹp rất yên ả, màu trời màu nước cùng hòa với nhau tạo thành một bức phông nền tuyệt đẹp cho bức tranh phong cảnh đã trải qua ba mùa thu tươi đẹp của đất nước.

=> Cảm hứng yêu nước của tác giả nằm ở cái nhìn, cách cảm nhận về vẻ đẹp của sông Bạch Đằng, tác giả tự hào vì Đại Việt ta có một dòng sông thơ mộng và hùng vĩ đến thế, từ đó lại càng yêu thêm mảnh đất nghìn năm văn hiến không đổi dời này.

- Cảm nhận được ở con sông vẻ lạnh lẽo, đìu hiu bởi trải qua bao nhiêu năm tháng, sông Bạch Đằng đã trở thành chứng nhân cho những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.

- Những hoài niệm về một thời quá vãng, cùng với cảnh vật tiêu điều hiu hắt, đã gợi lên trong lòng nhân vật "khách" những xúc cảm ưu tư, buồn bã vì dấu vết của thời gian dường như đã làm phai mờ đi những chiến công vang dội năm xưa, khiến tác giả xót xa, ngậm ngùi và thương tiếc không thôi.

=> Khơi gợi niềm tự hào dân tộc vì những chiến công lừng lẫy của cha ông, tấm lòng yêu nước sâu sắc, cùng với tinh thần chống giặc ngoại xâm bất khuất trong trái tim của mỗi người dân Đại Việt.

b. Cảm hứng yêu nước thông qua lời thuật lại các trận chiến vang dội trên sông Bạch Đằng của các bô lão:

- Giọng văn cường điệu, chất văn trung đại đậm tính ước lệ, tác giả đã khắc họa rõ những khoảnh khắc oai hùng, cùng truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường thông qua lời thuật lại của các bô lão.

- Trương Hán Siêu lấy những trận đánh chấn động lịch sử của Trung Quốc cổ đại đem ví như trận đánh của Đại Việt ta trên sông Bạch Đằng.

→ Chứng minh rằng nước Đại Việt ta từ trước đến nay vẫn ở một vị trí ngang hàng với nước bạn, không chấp nhận làm chư hầu hay bị xâm lăng bao giờ.

- Nhắc lại lịch sử hào hùng một thời của dân tộc, nhắc đến những "trùng hưng nhị thánh", nhắc đến "Ngô chúa" chính là để khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ngợi ca các bậc anh hùng kỳ tài, những bậc đế vương với biệt tài quy tụ lòng dân, tập hợp tinh thần yêu nước của cả một dân tộc làm thành sức mạnh vĩ đại sẵn sàng đương đầu với mọi sự tiến công mạnh mẽ của giặc ngoại xâm.

=> Bộc lộ niềm tự hào, ngưỡng mộ, ngợi ca tráng chí ngút ngàn, sự dũng mãnh của quân dân Đại Việt ta xứng danh với cái tên gọi hào khí Đông A mà Phạm Ngũ Lão trong Thuật hoài đã từng nhắc đến. Từ đó thể hiện sự trân trọng, mến yêu và biết ơn sâu sắc đến những vị anh hùng đi trước.

3. Kết bài:

Nêu cảm nhận.

Cảm hứng yêu nước hào khí Đông A trong bài Phú sông Bạch Đằng hay nhất

Cảm hứng yêu nước hào khí Đông A trong bài Phú sông Bạch Đằng - Bài mẫu 1

Nhà văn Nguyễn Trung Thành khi nhìn lại cả một chiều dài lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta đã cảm khái mà thốt lên rằng: “Nếu như phải vẽ lại lịch sử Việt Nam thì trang nào cũng phải vẽ một thanh gươm tự vệ và tô đậm một màu máu.” “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, Lê bao đời gây nền độc lập”(Nguyễn Trãi) có triều đại nào không phải kinh qua những cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, có thời đại nào không vang dội những chiến thắng nức lòng, có người dân của thời đại nào mà không sôi sục trong huyết quản một dòng máu yêu quê hương tha thiết? Hào khí Đông A, hiểu theo chiết tự, là hào khí của thời đại nhà Trần, nhưng hào khí ấy bắt nguồn từ lịch sử xa xưa các vua Hùng dựng nước và trực tiếp bắt nguồn từ chiến thắng của Ngô Quyền với quân Nam Hán (938), chiến thắng của Lý Thường Kiệt (1076). Hào khí âm vang lan truyền tới mãi mãi sau này, trong niềm kiêu hãnh dân tộc của người dân đất Việt. 

Làm sao có thể lí giải được một dân tộc nhỏ bé, một đất nước bé nhỏ lại có thể ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông – một đế quốc hùng mạnh và hung hãn nhất của thời bấy giờ, đi tới đâu là gieo rắc sự chết chóc cho mọi sinh linh tới đó: “Vó ngựa quân Nguyên Mông đi tới đâu, thì có không còn mọc được”, nếu như không nghe qua những lời thơ hùng tráng của các thi sĩ – tướng sĩ, hay chỉ là một kẻ khách không thôi, cũng được một hào khí Đông A, cũng ngăn ngụt một niềm kiêu hãnh, tự hào không hề che giấu..

Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.  

(Múa giáo non sông trải mấy thâu

Ba quân hùng khí át sao Ngưu)   

(Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão).

Câu thơ dịch là Múa giáo, không sát với nguyên bản và vì thế đã giảm mất tư thế “hoành sóc” hiên ngang của người tráng sĩ. Hoành sóc (cắp ngang ngọn giáo) thể hiện tư thế của người tráng sĩ, một tư thế ung dung đĩnh đạc, vừa tĩnh lại vừa động, vừa điềm đạm lại vừa hào hứng, thách thức. Đó là tư thế của một dân tộc biết được sức mạnh của mình và sức mạnh đó đã được trải qua bao cuộc thử thách, một tư thế vững vàng không thể lay chuyển được. Từ thế đứng của một tráng sĩ mà thay thế đứng cả dân tộc, từ sức mạnh của một người mà thấy được sức mạnh của cả dân tộc, cả quân đội:

Tam quân từ hổ khí thôn Ngưu.

Từ một thế đứng hiên ngang, câu thơ bỗng vút lên một ý tưởng lãng mạn, hay nói đúng hơn là tư một thế đứng, điệu thơ đã thăng hoa một cách rực rỡ và tỏa sáng hào quang lên tận trời xanh, át cả ánh sáng của sao Ngưu, sao Đẩu, những ngôi sao sáng nhất theo quan niệm của người xưa.

Trong thơ ca cổ điển, cái tôi thường ít được nói tới và những tâm trạng uẩn khúc của riêng một con người cũng hầu như không xuất hiện. Thế nhưng Phạm Ngũ Lão đã nói lên tâm sự của chính mình một cách thẳng thắn và cao đẹp:

Nam nhi vị liệu công danh trái

Tu chính nhân gian thuyết Vũ Hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu).

Đó là nỗi thẹn vì chưa trả được nợ công danh, nợ anh hùng nay trả nay vay, chưa báo đền nợ trước, bực vì sức mạnh không được như Gia Cát Lượng giúp nhà Hán ngày xưa, một nỗi thẹn thật đáng quý.

Hào khí Đông A đâu chỉ thể hiện ở lòng yêu nước căm thù giặc, tinh thần quật khởi, lòng tự hào dân tộc. Nó còn nằm trong những khía cạnh tâm sự sâu kín của con người, là tâm sự đáng yêu của một chàng trai đất Việt, cũng là tâm trạng của thế hệ thanh niên thời bấy giờ, lúc nào cũng canh cánh thù nhà nợ nước, cũng đặt trách nhiệm gánh vác sự an nguy của đất nước trên đôi vai của chính mình. Hào khí ấy đã làm nên những chiến thắng lẫy lừng để rồi mai sau, người dân nào đi qua những mảnh đất thiêng liêng của chiến địa cũng thấy dậy lên trong mình một hào khí của dân tộc. Đó cũng là cảm hứng làm nên sự bất hủ của bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu. 

Bài Bạch Đằng giang phú được làm cuối đời Trần, lúc mà chế độ phong kiến nhà Trần đang dần dần đi vào con đường suy thoái, nhưng giữa cảm hứng bi tráng của bài phú, vẫn vút lên một khí thế hào hùng của dân tộc, niềm say sưa và tự hào không gì che giấu nổi trước những chiến công. Thế mới biết hào khi Dong A có sức âm vang và lay động lòng người tới mức nào.

Tinh thần thượng võ ở thời trung cổ không phải là không có những nét đẹp và khi nó đi vào thơ phú của Trương Hán Siêu để được hòa quyện với lòng tự hào dân tộc, nó đã làm nên bức tranh tuyệt đẹp, cái đẹp của sự hào hùng:

Thuyền bè muôn đội                

Tinh kì phất phới                     

Tì hổ ba quân                          

Giáo gươm sáng chói              

Trận đánh thư hùng chứa phân

Chiến lũy Nam Bắc chống đối. 

Nhà thơ say sưa với trận đánh lịch sử như chính là đang sống với chiến cuộc, những nét bút tung hoành thể hiện một sự cảm khoái cực độ:

Khác nào

Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay  

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Và nếu như ở Thuật hoài, niềm tự hào của Phạm Ngũ Lão bốc đầy hùng khí thì ở Bạch Đằng giang phú, niềm tự hào đã chín một cách đằm thắm và vĩnh hằng, gắn với sự tồn tại của tự nhiên:

Đến nay sông nước tuy chảy hoài

Mà nhục quân thù không rửa nổi.

Sông nước chảy hoài, dòng chảy của tự nhiên, của lịch sử, của thời gian, dòng chảy ấy không xóa đi mà mãi mãi âm vang hào khí Đông A, cũng như lưu lại vết nhục của quân thù và niềm tự hào của mỗi người dân chúng ta.

Xuyên suốt qua hai tác phẩm Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là một tinh thần quật khởi, một tình yêu đất nước mãnh liệt, một lòng căm thù giặc sâu sắc và một niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc nức lòng người. Nhưng nói như vậy không có nghĩa dân tộc ta ưu thích chiến tranh, thích đổ máu, mà ngược lại, hơn bao giờ hết, hào khí Đông A được xây dựng trên nền tảng nhân nghĩa của cha ông ta:

Giặc tan muôn thuở thanh bình

Bởi đầu đất hiểm cốt mình đất cao .

Hoàng sóc giang sơn cáp kỉ thâu

Tam quân ti hổ khí thôn Ngưu.

Chính vì tư thế Hoàng sóc vừa vững chãi vừa uy nghi ấy cũng nói lên thế cắp ngang ngọn giáo đứng hiên ngang đẹp đẽ của dân tộc ta bởi vì chúng ta chiến đấu là để bảo vệ non sông gấm vóc, bảo vệ hòa bình.

Có cắt nghĩa như vậy ta mới lí giải được vì sao hào khí Đông A lại có một sức, lâu bền như vậy, và mới hiểu tại sao mà Nguyễn Trãi, Lê Lợi sau này lại làm nên những chiến công cũng hiển hách như vậy. Hào khí Đông A sống mãi trong lịch sử, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hơn một trăm năm sau sự ra đời của Bạch Đằng giang phú, hào khí ấy vẫn vọng lên trong bài thơ Qua cửa Hàm Tử của Trần Lâu:

Trống chiêng rung động, sóng dồn sóng

Cờ quạt tung bay, trúc rẽ nhàng

Cể chinh hùng dũng trào cao thấp

Kì bái sân sỉ trúc ảnh tà.

Và dù ở bài thơ nào, Thuật hoài, Bạch Đằng giang phú hay Qua cửa Hàm Tử thì hào khí Đông A vẫn được bày tỏ một cách hết sức tự nhiên, bởi nó đã thấm vào máu thịt của từng người dân đất Việt, nó là tâm huyết, là dòng máu nóng sục sôi trong từng huyết quản những người dân đã khắc hai chữ Sát Thát vào cánh tay mình trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông thế kỉ XIII.

Và bây giờ, khi đọc lại tác phẩm Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, ta như thấy được cả một rừng cánh tay vung lên, cánh tay nào cũng chích hai chữ Sát Thát đỏ thắm như máu, ta thấy lại được cái hùng khí của cả một thế hệ anh hùng, một thời đại anh hùng. Trong công cuộc dựng xây đất nước hôm nay, dân tộc như được tiếp nhận thêm sức mạnh bởi hào khí Đông A thuở trước.


Cảm hứng yêu nước hào khí Đông A trong bài Phú sông Bạch Đằng - Bài mẫu 2

Mỗi chúng ta, ai cũng thường có cho mình một nơi nào đó để gửi gắm kí ức. Các nhà văn, nhà thơ cũng vậy, họ hay chọn cho mình một miền đất hoặc một con sông. Và ở đó bao nhiêu kí thác tâm hồn được vắt ngang qua. Trở lại thế kỉ XIV, văn học trung đại của dân tộc đã có một nhà thơ như thế. Đó chính là Trương Hán Siêu – nhà thơ nặng lòng với con sông Bạch Đằng oai hùng của lịch sử qua văn phẩm nổi tiếng Phú sông Bạch Đằng. Có lẽ biết bao tâm tư của cả một đời cống hiến được ông dồn nén hết thảy vào dòng chảy bất diệt ấy để làm nên một tác phẩm trở thành đỉnh cao của thơ văn dân tộc.

Phú sông Bạch Đằng (tên chữ Hán Bạch Đằng giang phú) được dự đoán ra đời vào khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên thắng lợi của nhà Trần. Lấy cảm hứng từ một đề tài cũng không hề xa lạ, bởi sông Bạch Đằng đã trở thành thi liệu sáng tác của nhiều nhà thơ như Trần Minh Tông, Nguyễn Sưởng, sau này là Nguyễn Trãi. Nhưng Trương Hán Siêu trong Phú sông Bạch Đằng đã mang tới biết bao cảm xúc vừa chân thực, thiết tha vừa hoài niệm, xúc động để khơi dậy nên niềm tự hào, lòng yêu nước và khẳng định những tư tưởng nhân văn cao đẹp về giá trị con người. Có nhiều ghi chép cho rằng, Trương Hán Siêu sáng tác bài phú này vào thời điểm đất nước dưới thời hậu Trần (hai vị vua Trần Hiến Tông và Trần Dụ Tông) có dấu hiệu suy thoái. Vốn là một trọng thần, học vấn uyên thâm, tính tình đức độ, trải qua bốn đời vua Trần, từng được các vua tôn kính và gọi là "thầy", trước thực trạng đất nước như vậy, ông cảm thấy chán nản và tự mình ngao du đây đó. Và điểm đến của ông không đâu khác chính là con sông Bạch Đằng để hoài niệm về một thời vàng son của dân tộc. Có lẽ bởi vậy mà bài phú mới toát lên dư vị pha lẫn của một tâm hồn nghệ sĩ lãng tử, một sử nhân hoài cổ và một nỗi niềm nhân thế thầm kín.

Cảm hứng yêu nước hào khí Đông A trong bài Phú sông Bạch Đằng hay nhất (ảnh 2)

Với đặc trưng cơ bản của loại phú cổ thể, Phú sông Bạch Đằng có bố cục 4 đoạn (mở, giải thích, bình luận, kết) và có hình thức đối đáp quen thuộc giữa nhân vật "khách" và nhân vật "các vị bô lão" được tác giả hư cấu. Tuy nhiên, điểm tựa của toàn bộ bài phú là cảm xúc, tâm trạng của nhân vật "khách" được bộc lộ xuyên suốt từ lúc đặt chân tới sông Bạch Đằng cho đến khi lắng nghe được những lời kể đầy hào hùng về những chiến công trên dòng sông ấy của các vị bô lão. Vì vậy mà nhiều đánh giá cho rằng cấu tứ của bài phú giống như một bài thơ hơn là một bài văn tả cảnh, kể việc thông thường.

Cứ như thế, nhân vật "khách" bước ra mang đầy cảm hứng thơ, cảm hứng của một vị khách hải hồ:

Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao

Qua hàng loạt các hình ảnh đậm chất ước lệ, có tính phóng đại giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm gợi lên cả không gian, thời gian đều rộng mở. Lại thêm các từ láy chơi vơi, mải miết diễn tả thật đậm nét tâm hồn của một bậc mặc khách, tao nhân đang vi vu cùng với đất trời, thỏa chí mà phóng khoáng, ngao du. Khách xuất hiện như thể mang theo một giấc mộng hải hồ, đắm mình cùng thiên nhiên. Kẻ lãng du ấy kéo theo cả hàng loạt những địa danh, những phong cảnh đẹp của Trung Hoa vốn chỉ biết trong sách vở. Nào là Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, nào là Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng… nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều. Có cả một trình độ hiểu biết sâu rộng hay là cách để đấng mặc khách ấy thực hiện khát vọng thỏa cái tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết? Sao cũng phải, bởi trước hết cái tráng trí ấy mang trong mình tâm thức của một bậc thi nhân đầy lãng mạn, ưa thích ngao du. Cho nên việc học Tử Trường đâu có phải học cách của một sử kí gia, mà là học thú tiêu dao, cái thú thưởng ngoạn để giữa dòng chừ buông chèo không nỡ bỏ lỡ cảnh đẹp nên thơ, lại thêm mở mang hiểu biết.

Nhưng giấc mộng hải hồ ấy chợt thành hiện thực khi chiếc thuyền ngoặt:

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

Một lần nữa thủ pháp liệt kê lại đưa chúng ta đến những địa danh khác, nhưng lần này là thực, là thủy lưu dẫn đến sông Bạch Đằng. Và hiện ra trước mắt người nghệ sĩ một Bạch Đằng trong khung cảnh đối lập. Đó là khung cảnh tuyệt sắc của thiên nhiên. Cổ nhân thường nói: "Thi trung hữu họa" quả không sai. Trên trời, dưới nước mênh mông, một Bạch Đằng không lúc nào tĩnh lặng nhưng vẫn hiền hòa, nên thơ: sóng kình muôn dặm/ đuôi trĩ một màu/ nước trời: một sắc/ phong cảnh: ba thu. Bức tranh mở ra hết tầm trên độ rộng, lắng xuống ở độ sâu. Hai từ láy bát ngát, thướt tha càng làm cho biên độ ấy thêm lớn. Nhưng cảnh thu đi đến hồn thu, cảnh đẹp nhưng đượm buồn. Vì những bờ lau, bến lách đìu hiu, vì những chứng tích năm xưa còn sót lại thật thê thảm. Phải chăng bởi thế mà lòng người có sự thay đổi cảm xúc từ vui, tự hào trở nên u buồn, ảm đạm, ngậm ngùi, thương tiếc cho những giá trị lịch sử oai hùng bị mai một trước sự trôi chảy khắc nghiệt của thời gian. Trước cảnh trí đầy tiêu sơ như vậy, lòng người sao tránh được những cảm khái, ưu tư gợn lòng hoài cổ! Giống như Nguyễn Trãi:

Việc trước quay đầu ôi đã vắng

Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng

(Cửa biển Bạch Đằng)

Nét tâm trạng, cảm xúc ấy là nguyên cớ để nảy sinh cuộc trò chuyện với các vị bô lão ở phần tiếp theo. Cuộc đối thoại này diễn ra vừa như một quy ước văn chương vừa như một nhu cầu chia sẻ, giãi bày để làm thức dậy một quá khứ tưởng đã ngủ yên trong quên lãng. Các vị bô lão - người dân địa phương, cũng có thể là những nhân chứng lịch sử đã trực tiếp tham gia vào chiến trận Bạch Đằng năm xưa, đối đãi "khách" với một thái độ đầy kính trọng, nhiệt thành (hỏi ý ta sở cầu, gậy lê chống trước, thuyền nhẹ bơi sau, vái ta mà thưa). Với tư cách là người trong cuộc, họ đã tái hiện, phục chế lại một bức tranh đã nhuốm màu dâu bể, đã phủ bụi thời gian.

Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao

Đó là hai trận đánh lịch sử ghi dấu chiến công oanh liệt, vang dội nhất trên sông Bạch Đằng. Bằng lời kể đậm sắc thái ước lệ, bút pháp cường điệu, sử thi mang cảm hứng vũ trụ thế trận, quy mô cuộc chiến "thư hùng" diễn ra ngang tài, ngang sức, không phân thắng bại:

Đương khi ấy:

Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới

Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.

Vua, quân tướng của ta được tôn vinh là "Trùng Hưng nhị thánh", " Ngô chúa", còn kẻ thù cứ thẳng tên mà gọi, bọn chúng cứ như bầy thiêu thân lao vào lửa, chỉ còn trần trụi những Tất Liệt, Lưu Cung. "Gieo gió gặt bão", đó là quy luật tất yếu ắt phải nhận của những kẻ huênh hoang, hiếu chiến. Không tự nhiên mà Trương Hán Siêu lại sử dụng điển tích Trung Quốc trận Xích Bích, trận Hợp Phì để so sánh. Sự tương đồng giữa xưa và nay vừa để khẳng định chiến công vang dội vừa ẩn ngầm niềm tự hào vô hạn của một đất nước nhỏ bé, hay bị coi thường với một đất nước lớn như Trung Hoa. Tan tác tro bay/ hoàn toàn chết trụi đăng đối lại càng nhấn mạnh đến sự thảm bại của kẻ thù ôm theo giấc mộng: gieo roi một lần/ quét sạch Nam bang bốn cõi để muôn đời nước sông chảy hoài mà nhục quân thù khôn rửa nổi. Giọng văn khí thế, hùng hồn đã khơi dậy một tinh thần yêu nước, niềm tự hào mãnh liệt trước truyền thống oanh liệt, vẻ vang của dân tộc.

Điểm nhấn rất hay của bài phú chính là ở chỗ chiến công trên sông Bạch Đằng không hề bị huyền thoại hóa, mà nó cắt nghĩa được rõ ràng nguyên nhân. Trong lời bình luận của các vị bô lão, họ đã nhắc tới phép dùng binh trong sách cổ, có ba yếu tố: "Thiên thời, địa lợi, nhân hòa":

Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san

Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn

Trời đất cho nơi hiểm trở là Địa. Bởi đại vương coi thế giặc nhàn, đã sẵn sàng mọi con đường tiến lui là Thiên. Nhân tài giữ cuộc điện an là Nhân, là cái tài lớn của kẻ làm tướng thu phục được lòng dân. Trong đó, vai trò của Nhân là quyết định. Bởi người anh hùng là phải biết tạo thời thế, chứ không trông chờ vào thời thế. Vì vậy, một lần nữa việc sử dụng điển tích Trung Hoa (hội Mạnh Tân, trận Duy Thủy) càng đề cao vai trò của nhân tài là lấy được lòng dân. Nhận thức đầy lý trí ấy lại làm trào dâng lên cảm xúc tiếc thương khi nhớ người xưa. Một xưa đầy hào khí thì dù đến nay có nước mắt chừ lệ chan thì niềm tự hào vẫn còn mãi. Nhưng tiếc thay, nay không bằng xưa nên nước mắt ấy là nỗi xót xa nhân thế bàng bạc hiện ra.

Dẫu sao nỗi niềm ấy cũng được thay bằng sự nối tiếp nhau qua lời ca của các vị bô lão và khách. Cách kết thúc rất đặc trưng của phú cổ thể, nhưng cái hay là đã được các nhà soạn dịch chuyển thể thành những vần thơ lục bát. Trong lời ca của mình, các vị bô lão đem so sánh cái quy luật tự nhiên bất biến của Bạch Đằng giang sẽ cuồn cuộn chảy ra biển cũng như quy luật muôn đời của nhân thế là những kẻ bất nghĩa sẽ bị tiêu vong, còn người anh hùng sẽ lưu danh thiên cổ. Lời ca một lần nữa phê phán mạnh mẽ quân thù phương Bắc và ngợi ca những anh hùng dân tộc sẽ được lưu danh muôn đời. Còn khách vẫn mang trong mình một hoài vọng, ngợi ca hai vị thánh quân nhà Trần đã anh minh, có đức cao mới thu phục được lòng dân và tận dụng được đất hiểm để quét sạch quân thù, để đất nước thanh bình, yên ổn. Đoạn kết đã thể hiện rất sâu sắc tư tưởng nhân văn cao cả. Hai lời ca đều nhấn mạnh đến vai trò to lớn của con người trong lịch sử. Điều đó càng khiến nhà thơ khao khát có những đấng minh vương cho xã tắc lúc bấy giờ.

Khẳng định Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam thật xác đáng. Với lối kết cấu đặc trưng, câu văn, giọng điệu linh hoạt, bút pháp ước lệ, tượng trưng kết hợp với lối nói cường điệu, hình tượng nhân vật đặc sắc, bài phú đã thể hiện sâu sắc những hoài niệm về quá khứ của tác giả Trương Hán Siêu. Qua đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trước những chiến công trên sông Bạch Đằng và ngợi ca truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Hơn thế, bài phú đã chuyển tải được tư tưởng nhân văn cao đẹp trong việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử mà điều đó vẫn còn có ý nghĩa đến ngày nay.


Cảm hứng yêu nước hào khí Đông A trong bài Phú sông Bạch Đằng - Bài mẫu 3

Yêu nước là cảm hứng không bao giờ ngưng trong dòng chảy của văn chương dân tộc suốt bao thế kỉ qua. Có cái âm vang từ thuở Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt) cất lên bên bến sông Như Nguyệt. Có cái khí thế của đội quân Sát Thát nhà Trần trong khúc hùng ca Tụng giá hoàn kinh sư(Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão). Có cái ngút ngàn của binh tướng Lam Sơn trong Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi). Có cái rung chuyển của trận đánh thần tốc gắn với người anh hùng áo vải Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái)… Dẫu dừng ở điểm nào cũng vẫn thấy nguồn cảm hứng ấy cuồn cuộn dâng trào. Và Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, một điểm dừng góp vào cho dòng chảy của văn chương yêu nước một khúc hùng ca bất diệt. Bài phú càng khẳng định vị trí đỉnh cao nghệ thuật của mình hơn khi âm hưởng yêu nước hào hùng trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo.

Trương Hán Siêu là một người học vấn uyên bác, thông hiểu sâu sắc đạo Nho, đạo Phật, lại giàu lòng yêu nước và có nhiều công lao đối với triều Trần, vì vậy ông được các vua Trần tôn kính, xem như bậc thầy. Tác phẩm của ông bộc lộ tinh thần yêu non sông đất nước, tự hào về truyền thống vẻ vang của lịch sử dân tộc, đượm sắc thái trữ tình hoài cổ. Ngôn ngữ trong văn chương của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng, sử dụng thành công những hình dung từ giàu sắc thái trữ tình, giọng điệu thi phú rất uyển chuyển. Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lí – Trần.

Bài “Phú sông Bạch Đằng” được sáng tác sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông khoảng 50 năm. Bạch Đằng là con sông ghi dấu nhiều chiến công oanh liệt của dân tộc như trận thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền, trận thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Đã có rất nhiều nhà thơ viết về con sông lịch sử đầy niềm tự hào này, nhưng bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là nổi tiếng và đặc sắc nhất. Tác phẩm được viết theo lối phú cổ thể. Đây là một thể loại văn có nguồn gốc từ Trung Quốc, viết bằng văn vần hoặc văn xuôi có xen lẫn văn vần, có nội dung kể, tả khách quan các sự việc, phong tục, cảnh vật, bàn sự đời.

Đến với bài phú, ai cũng thích thú bởi khám phá được vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt sắc trên sông Bạch Đằng. Dưới lăng kính tâm hồn của nhân vật “khách”, Trương Hán Siêu đã mang tới một khung cảnh đẹp mê hồn ít ai nghĩ sẽ thấy ở Bạch Đằng giang. Sau giây phút trải cái tráng trí bốn phương theo gió trăng, trời bể, lướt con thuyền tâm hồn qua các địa danh ở xứ Bắc phương, “khách” như thể bị một lực hút từ trường của sông Bạch Đằng mà rảo bơi chèo thật nhanh đến đó để chiêm ngưỡng cảnh sắc thu toàn bích trên sông.

Thông qua những từ láy gợi hình (bát ngát, thướt tha), kết hợp với việc nhắc đến những địa danh gắn liền với sông Bạch Đằng. Tác giả đã gợi cho người đọc vẻ đẹp hùng vĩ, bát ngát mênh mông của sông Bạch Đằng. Đồng thời tác giả cũng bày tỏ được cảm xúc của mình khi đứng trước một nhân chứng lịch sử khi hoài niệm về quá khứ oanh liệt.

Tái hiện lịch sử để làm gì khi không phải là mang ý nghĩa để tự hào, để ngợi ca những chiến công oanh liệt và những con người làm nên điều ấy. Trương Hán Siêu tự hào lắm khi gọi tên các bậc anh hùng đầy trang trọng như Trùng Hưng nhị thánh, Ngô chúa, khác hẳn với cách gọi coi thường bằng tên trực tiếp bọn tướng giặc. Ông cũng đầy kiêu hãnh khi nhìn ra thắng lợi vẻ vang của dân tộc là nhờ trời cho nơi đất hiểm, đất nước có những nhân tài đã quy tụ được lòng dân. Trong cảm hứng của khúc tráng ca ngút ngàn ấy, con người - những bậc minh quân, khai tướng đã trở thành những biểu tượng cho lòng yêu nước cháy bỏng bằng tài năng, đức độ. Để ngàn năm tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn/ nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh. Trong Tỏ lòng, nhà thơ Phạm Ngũ Lão cũng đã thể hiện sắc thái tự hào, ngợi ca con người và thời đại hào khí Đông A như thế, nhưng là ngay thời điểm hiện tại trong khí thế cả vua quân, tướng sĩ nhà Trần đang đánh giặc. Còn ở đây, Trương Hán Siêu chỉ nhìn lại thôi, mà vẫn đong đầy, chan chứa sự mến trọng, nâng niu.

Bạch Đằng giang phú được coi là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.Tác giả đã vận dụng thủ pháp kể, miêu tả về cảnh sông Bạch Đằng sinh động, chân thật, giàu chất trữ tình. Đồng thời người đọc còn cảm nhận được những cảm xúc, những hoài niệm về quá khứ oanh liệt. Bài phú mang đậm chất sử thi hoành tráng sử dụng nhiều điển tích, điển cố chọn lọc, giàu sức gợi,những câu văn ngắn dài, phần cuối xen vào những câu thơ làm nên âm điệu hào hùng và rất trữ tình cho tác phẩm.


Cảm hứng yêu nước hào khí Đông A trong bài Phú sông Bạch Đằng - Bài mẫu 4

"Bạch Đằng giang phú" - một bài phú tiêu biểu xuất sắc nhất trong thể phú của văn học Việt Nam thời kì trung đại, qua bài phú, tác giả Trương Hán Siêu không chỉ ca ngợi truyền thống anh hùng kiên cường bất khuất của dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào về cảnh đẹp quê hương đất nước. Tiêu biểu trong đoạn mở đầu của bài phú, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của con sông Bạch Đằng lịch sử, một địa danh mang ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc.

Vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên sông nước Bạch Đằng được tác giả tái hiện qua cái nhìn và cảm nhận của nhân vật "khách", tuy nhiên có thể hiểu kẻ "khách" chính là tác giả, ngay từ những câu đầu tiên tác giả đã giới thiệu về kẻ khách là người thích du ngoạn, tự do và phóng khoáng:

"Khách có kẻ...

Lướt bể chơi trăng mải miết"

Nhân vật "khách" đã liệt kê ra những địa danh qua hiểu biết và qua thực tế du ngoạn, sớm chiều rong ruổi thưởng ngoạn, trong đó hàng loạt các địa danh nổi tiếng của Trung Quốc được nhắc đến như: sông Nguyên, sông Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng.

"Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương...

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều."

Kẻ khách tự khẳng định rằng "Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết", như để nói lên vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của mình, hơn thế còn nhắc tới "tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết" như bày tỏ hoài bão lớn lao và sự khoáng đạt trong tâm hồn của mình. Ngoài các địa danh trên đất Trung Quốc, nhân vật khách đã nhắc đến những địa danh trên đất Việt như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, có thể thấy kẻ khách là một người có lòng yêu thiên nhiên say đắm, vốn hiểu biết phong phú lại thêm niềm say mê thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên. Bằng lòng yêu thiên nhiên, nhân vật khách đã khắc họa cảnh sắc thiên nhiên sông Bạch Đằng một cách tinh tế, chân thực và sống động, mang nhiều vẻ đẹp khác nhau:

"Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều...

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô"

Sông Bạch Đằng hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở "sóng kình muôn dặm" nhưng lại không kém phần mĩ lệ, trữ tình "Thướt tha đuôi trĩ một màu", trên những đợt sóng dữ dội ấy là những đoàn thuyền nối đuôi nhau như đuôi chim trĩ lặng lẽ trôi trên sông vượt qua những đợt sóng kình. Đất trời và sông nước mang một vẻ đẹp tự nhiên hòa hợp "nước trời: một sắc" bầu trời mặt nước cùng một màu xanh trong, "phong cảnh: ba thu" nghĩa là phong cảnh vào độ chín nhất trong khoảng thời gian tháng thứ ba của mùa thu. Cảnh sắc đất trời gợi nên một không gian thơ mộng, nhưng cũng có nét đượm buồn bởi hình ảnh bờ lau, bến lách, các từ láy "san sát", "đìu hiu" đã cực tả sự hoang vắng, đìu hiu và cô quạnh của con sông, những bờ lau trắng nối tiếp nhau trên bờ sông, những bến lách đìu hiu gợi ra cảnh thê lương, tang tóc. Mà chính nơi đây là chiến địa sinh tử, đã biết bao con người ngã xuống, máu nhuốm đỏ cả dòng sông, dưới sông còn nhiều giáo gươm, trên gò còn nhiều xương khô. Những chứng tích đó là minh chứng cho lịch sử hào hùng của dân tộc nhưng cũng khiến cho lòng người không tránh khỏi niềm tiếc thương cho những mất mát, hy sinh.

"Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu...

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu"

Trước là sự tự hào vì chiến tích nơi đây thì giờ là nỗi buồn thảm thương lặng người vì sự chết chóc do chiến tranh gây ra, buồn vì giá trị lịch sử cũng theo thời gian mà bị mai một đi, các động từ "buồn, thương, tiếc" góp phần khắc họa rõ tâm trạng ảm đạm, ngậm ngùi khôn nguôi của nhân vật khách trước cảnh sông Bạch Đằng.

Như vậy qua đoạn mở đầu của bài "Bạch Đằng giang phú", tác giả Trương Hán Siêu đã đưa người đọc trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ niềm tự hào về chiến tích lịch sử vẻ vang của dân tộc đến niềm buồn thương tiếc nuối vì những giá trị lịch sử đã dần phai mờ, mai một. Người đọc cũng qua đó ý thức về vấn đề bảo vệ và gìn giữ những giá trị lịch sử, khắc ghi công ơn xương máu của thế hệ cha anh đã ngã xuống bồi đắp nên nền hòa bình độc lập của đất nước Việt Nam như ngày hôm nay.


Cảm hứng yêu nước hào khí Đông A trong bài Phú sông Bạch Đằng - Bài mẫu 5

      Nhà văn Nguyễn Trung Thành khi nhìn lại cả một chiều dài lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta đã cảm khái mà thốt lên rằng: “Nếu như phải vẽ lại lịch sử Việt Nam thì trang nào cũng phải vẽ một thanh gươm tự vệ và tô đậm một màu máu”. "Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập” (Nguyễn Trãi) có triều đại nào không phải kinh qua những cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, có thời đại nào không vang dội những chiến thắng nức lòng, có người dân của thời đại nào mà không sôi sục trong huyết quản một dòng máu yêu quê hương tha thiết? Hào khí Đông A, hiểu theo chiết tự, là hào khí của thời đại nhà Trần, nhưng hào khí ấy bắt nguồn từ lịch sử xa xưa các vua Hùng dựng nước và trực tiếp bắt nguồn từ chiến thắng của Ngô Quyền với quân Nam Hán (938), chiến thắng của Lý Thường Kiệt (1076). Hào khí âm vang lan truyền tới mãi mãi sau này, trong niềm kiêu hãnh dân tộc của người dân đất Việt.       

     Làm sao có thể lý giải được một dân tộc nhỏ bé, một đất nước bé nhỏ lại có thể ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông - một đế quốc hùng mạnh và hung hãn nhất của thời bấy giờ, đi tới đâu là gieo rắc sự chết chóc cho mọi sinh linh tới đó: “Vó ngựa quân Nguyên Mông đi tới đâu, thì cỏ không còn mọc được”, nếu như không nghe qua những lời thơ hùng tráng của các thi sĩ - tướng sĩ, hay chỉ là một kẻ khách không thôi, cũng đượm một hào khí Đông A, cũng ngùn ngụt một niềm kiêu hãnh, tự hào không hề che giấu.

Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.

(Múa giáo non sông trải mấy thâu

Ba quân hùng khí át sao Ngưu)

(Thuật hoài - Phạm Ngũ Lão)

     Câu thơ dịch là "múa giáo", không sát với nguyên bản và vì thế đã giảm mất tự thể “hoành sóc” hiên ngang của người tráng sĩ. "Hoành sóc" (cắp ngang ngọn giáo) thể hiện tư thế của người tráng sĩ, một tư thế ung dung đĩnh đạc, vừa tĩnh lại vừa động, vừa điềm đạm lại vừa hào hứng, thách thức. Đó là tư thế của một dân tộc biết được sức mạnh của mình và sức mạnh đó đã được trải qua bao cuộc thử thách, một tư thế vững vàng không thể lay chuyển được. Từ thế đứng của một tráng sĩ mà thấy thế đứng cả dân tộc, từ sức mạnh của một người mà thấy được sức mạnh của cả dân tộc, cả quân đội:

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.

    Từ một thế đứng hiên ngang, câu thơ bỗng vút lên một ý tưởng lãng mạn, hay nói đúng hơn là tư một thế đứng, điệu thơ đã thăng hoa một cách rực rỡ và tỏa sáng hào quang lên tận trời xanh, át cả ánh sáng của sao Ngưu, sao Đẩu, những ngôi sao sáng nhất theo quan niệm của người xưa.

     Trong thơ ca cổ điển, cái tôi thường ít được nói tới và những tâm trạng uẩn khúc của riêng một con người cũng hầu như không xuất hiện. Thế nhưng Phạm Ngũ Lão đã nói lên tâm sự của chính mình một cách thẳng thắn và cao đẹp:

Nam Nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu).

     Đó là nỗi thẹn vì chưa trả được nợ công danh, nợ anh hùng nay trả mai vay, chưa báo đền nợ trước, bực vì sức mạnh không được như Gia Cát Lượng giúp nhà Hán ngày xưa, một nỗi thẹn thật đáng quý.

     Hào khí Đông A đâu chỉ thể hiện ở lòng yêu nước căm thù giặc, tinh thần quật khởi lòng tự hào dân tộc. Nó còn nằm trong những khía cạnh tâm sự sâu kín của con người, là tâm sự đáng yêu của một chàng trai đất Việt, cũng là tâm trạng của thế hệ thanh niên thời bấy giờ, lúc nào cũng canh cánh thù nhà nợ nước, cũng đặt trách nhiệm gánh vác sự an nguy của đất nước trên đôi vai của chính mình. Hào khí ấy đã làm nên những chiến thắng lẫy lừng để rồi mai sau, người dân nào đi qua những mảnh đất thiêng liêng của chiến địa cũng thấy dậy lên trong mình một hào khí của dân tộc. Đó cũng là cảm hứng làm nên sự bất hủ của Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu.

     Bài Bạch Đằng giang phú được làm cuối đời Trần, lúc mà chế độ phong kiến nhà Trần đang dần dần đi vào con đường suy thoái, nhưng giữa cảm hứng bi tráng của bài phú, vẫn vút lên một khí thế hào hùng của dân tộc, niềm say sưa và tự hào không gì che giấu nổi trước những chiến công. Thế mới biết hào khí Đông A có sức âm vang và lay động lòng người tới mức nào.

     Tinh thần thượng võ ở thời trung cổ không phải là không có những nét đẹp và khi nó đi vào thơ phú của Trương Hán Siêu để được hòa quyện với lòng tự hào dân tộc, nó đã làm nên bức tranh tuyệt đẹp, cái đẹp của sự hào hùng:

Thuyền bè muôn đội

Tinh kì phất phới

Tì hổ ba quân

Giáo gươm sáng chói

Trận đánh thư hùng chửa phân

Chiến lũy Nam Bắc chống đối.

     Nhà thơ say sưa với trận đánh lịch sử như chính là đang sống với chiến cuộc, những nét bút tung hoành thể hiện một sự cảm khoái cực độ:

Khác nào

Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

      Và nếu như ở Thuật hoài, niềm tự hào của Phạm Ngũ Lão bốc đầy hùng khí thì ở Bạch Đằng giang phú, niềm tự hào đã chín một cách đằm thắm và vĩnh hằng, gắn với sự tồn tại của tự nhiên:

Đến nay sông nước tuy chảy hoài

Mà nhục quân thù không rửa nổi.

     Sông nước chảy hoài, dòng chảy của tự nhiên, của lịch sử, của thời gian, dòng chảy ấy không xóa đi mãi mãi lại âm vang của hào khí Đông A, cũng như lưu lại vết nhục của quân thù và niềm tự hào của mỗi người dân chúng ta.

     Xuyên suốt qua hai tác phẩm Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là một tinh thần quật khởi, một tình yêu đất nước mãnh liệt, một lòng căm thù giặc sâu sắc và một niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc nức lòng người. Nhưng nói như vậy không có nghĩa dân tộc ta ưu thích chiến tranh, thích đổ máu, mà ngược lại, hơn bao giờ hết, hào khí Đông A được xây dựng trên nền tảng nhân nghĩa của cha ông ta:

     Giặc tan muôn thuở thanh bình "Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao", "Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu/ Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu".

     Chính vì tư thế "hoành sóc" vừa vững chãi vừa uy nghi ấy cũng nói lên thế cắp ngang ngọn giáo đứng hiên ngang đẹp đẽ của dân tộc ta bởi vì chúng ta chiến đấu là để bảo vệ non sông gấm vóc, bảo vệ hòa bình.

     Có cắt nghĩa như vậy ta mới lý giải được vì sao hào khí Đông A lại có một sức lâu bền như vậy, và mới hiểu tại sao mà Nguyễn Trãi, Lê Lợi sau này lại làm nên những chiến công cũng hiển hách như vậy. Hào khí Đông A sống mãi trong lịch sử, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hơn một trăm năm sau sự ra đời của Bạch Đằng giang phú hào khí ấy vẫn vọng lên trong bài thơ Qua cửa Hàm Tử của Trần Lâu: "Trống chiêng rung động, sông dồn sóng Cờ quạt tung bay, trúc rẽ nhàng Cổ chinh hùng dũng trào cao thấp Kì bái sân sỉ trúc ánh tà".

     Và dù ở bài thơ nào, Thuật hoài, Bạch Đằng giang phú hay Qua cửa Hàm Tử thì hào khí Đông A vẫn được bày tỏ một cách hết sức tự nhiên, bởi nó đã thấm vào máu thịt của từng người dân đất Việt, nó là tâm huyết, là dòng máu nóng sục sôi trong từng huyết quản những người dân đã khắc hai chữ Sát Thát vào cánh tay mình trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông thế kỷ XIII.

      Và bây giờ, khi đọc lại tác phẩm Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, ta như thấy được cả một rừng cánh tay vung lên, cánh tay nào cũng chích hai chữ Sát Thát đỏ thắm như máu, ta thấy lại được cái hùng khí của cả một thế hệ anh hùng, một thời đại anh hùng. Trong công cuộc dựng xây đất nước hôm nay, dân tộc như được tiếp nhận thêm sức mạnh bởi hào khí Đông A thuở trước.

---/---

Trên đây là một số bài văn mẫu Cảm hứng yêu nước hào khí Đông A trong bài Phú sông Bạch Đằng mà Top lời giải đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

icon-date
Xuất bản : 29/03/2022 - Cập nhật : 26/11/2022