Câu hỏi: Bản chất của tín hiệu ngôn ngữ là?
Trả lời:
Ngôn ngữ là một hệ thống. Hệ thốngngôn ngữ bao gồm nhiều hệ thống nhỏ. Hệ thống ngôn ngữ khác các hệ thống khác bởi bản chất tín hiệu của nó, cụ thể như sau:
* Tính hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ:
- Tín hiệu ngôn ngữ luôn có hai mặt CBH và CĐBH. Hai mặt này luôn gắn bó khăng khít với nhau. Hai mặt của TH phải được con người quy ước và ngầm hiểu với nhau trong giao tiếp. Từ là một đơn vị ngôn ngữ có 2 mặt: hình thức và ý nghĩa. Ngoài từ, các đơn vị ngôn ngữ khác như: hình vị, CTCĐ cũng có 2 mặt như từ. Đơn vị lớn hơn: cụm từ, câu, đoạn văn... gồm 1 chuỗi các TH kết hợp với nhau.
- Tín hiệu ngôn ngữ (âm thanh/ chữ viết) là tín hiệu có 2 mặt CBĐ và CĐBĐ hoàn toàn do con người quy ước, thỏa thuận với nhau nên nó có tính quy ước rất cao trong MQH giữa CBĐ và CĐBĐ.
* Tính võ đoán của tín hiệu ngôn ngữ:
- Quan hệ CBH và CĐBH có tính quy ước được xã hội chấp nhận. TH ngôn ngữ do con người quy ước, được hình thành trong lịch sử giao tiếp và tạo thành thói quen sử dụng trong cộng đồng. Do tính quy ước nên tín hiệu ngôn ngữ tính võ đoán. Đó là MQH 2 mặt của TH ngôn ngữ;
- Tuy vậy, trong ngôn ngữ một số tín hiệu có tính võ đoán thấp nên quan hệ giữa âm thanh và ý nghĩa có phần có lí do. Đó là trường hợp sau:
+ Từ tượng thanh: róc rách, đùng đoàng, meo meo, (con) bò, ...các từ này phần nào gợi ra âm thanh của SVHT mà nó gọi tên nên chúng có tính võ đoán thấp;
+ Từ tượng hình: gồ ghề, khúc khuỷu... các từ này phần nào gợi ra hình ảnh của SVHT mà nó gọi tên nên chúng có tính võ đoán thấp;
+ Thán từ: ối, ái, a, ô...gợi ra tình cảm, thái độ của người sử dụng đối với hệ thống nên tính võ đoán thấp;
* Giá trị khu biệt của tín hiệu ngôn ngữ:
Mỗi tín hiệu ngôn ngữ đều có khả năng phân biệt. Tín hiệu ngôn ngữ này có hình thức nghữ âm và ý nghĩa khác với tín hiệu ngôn ngữ kia. Tín hiệu ngôn ngữ khác với các loại tín hiệu khác bởi đặc trưng tính 2 mặt và tính võ đoán của tín hiệu ngôn ngữ.