logo

Tóm tắt Người thầy đầu tiên (Sơ đồ tư duy, nội dung chính)

Tìm hiểu tác phẩm, tóm tắt Người thầy đầu tiên ngắn gọn nhất. Hướng dẫn cách vẽ sơ đồ tư duy bài Người thầy đầu tiên dễ hiểu bám sát nội dung SGK Ngữ văn 7 Kết nối tri thức.


1. Người thầy đầu tiên

Mùa thu năm ngoái tôi nhận được một bức điện từ làng tôi gửi đến. Bà con trong làng mời tôi vẽ dự buổi khánh thành ngôi trưởng mới do nông trường xây dựng. Tôi lập tức quyết định về làng, vì làm sao tôi có thể ngồi nhà trong một ngày vui của quê hương như thế được. Tôi còn vẻ trước vài ngày nữa là khác. Tôi định bụng vẻ sẽ dạo quanh, ngắm cảnh vả vẽ ít bức kí hoạ. Trong số những người được mời về dự hoá ra có cả bà viện sĩ Xu-lai-ma-nô-va (Sulaimanova). Tôi nghe nói bảo vẻ đây một hai hôm rồi đi thẳng lên Mát-xcơ-va (Moskva)

[...] Thế là bả An-tu-nai Xu-lai-ma-nô-va ra đi. Tôi trở lại thành phố và mấy hôm sau bỗng nhận được thư của bà. Bà cho biết là sẽ ở lại Mát-xcơ-va lâu hơn dự định và viết:

“Tuy có rất nhiều công việc quan trọng và khẩn cấp, tôi cũng đã quyết định gác hết lại và viết lá thư này cho anh... Nếu anh thấy điều tôi viết đây đáng được chú ý thì tôi khẩn khoản xin anh ng] xem làm thế nào cho mọi người cũng biết câu chuyện tôi sẽ kể. Tôi nghĩ không phải chỉ riêng bả con trong làng mà nói chung mọi người, nhất là lứa tuổi trẻ, đều cản biết câu chuyện này.” [....]

Tôi đã mang nặng trong lòng những ấn tượng của lá thư ấy mấy ngày liền. Và tôi không nghĩ ra được cách gì hơn là thay mặt bả An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va để kể hết chuyện này.

[....] Có lần, những túi đựng đầy ki - giắc nhặt ở chân núi mé bên làng trở về chúng tôi vòng vào trường xem thử thầy giáo đang làm gì ở đây.

[...] Lúc chúng tôi đặt các bao ki-giắc xuống đất để nghỉ một lát, Ðuy-sen từ trong cửa bước ra, người bê bết đất. Trông thấy chúng tôi, anh ngân người ra một lát, nhưng rồi lại núm cười niềm nở, lấy tay quệt mồ hôi trên mặt

- Đi đâu về thể các em gái?

Chúng tôi ngồi cạnh những bao ki-giắc then thò nhìn nhau, Đuy-sen hiểu rằng chúng tôi im lặng vì bến lến nên nháy mắt động viên:

- Những cải bao kia to hơn cả người các em đấy. Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thủ có thể nói là đã xong đến nơi rồi. Thầy vừa đắp lò sưởi ở góc nhà vả bắc cả ống khói trên mái, các em thử nhìn xem! Giờ chỉ còn phải trữ sẵn củi để sưởi trong mùa đông nữa thôi nhưng không sao, chung quanh thiêu gi củi khô. Dưới nên nhà ta sẽ trải rơm thật nhiều, thể là có thể bắt đầu học được rồi. Thẻ bảo, các em thích học không, các em sẽ đi học chứ?

Tôi lớn hơn các bạn gái khác nên đánh bạo trả lời

- Nếu thím em cho đi thì em sẽ đi

- Sao thím em lại không cho, thế nào cũng cho chứ. Vậy tên em là gì?

- An-tư-nai - Tôi vừa đáp vừa lấy tay che chỗ gấu váy thủng hở một mảng đầu gối

- An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không? - Ðuy-sen mỉm cười hiền từ khiến tôi thấy lòng ấm hẳn lại

- Thế em con ai?

Tôi lặng thinh tôi vốn không thích có ai thương hại tôi:

- Chị ấy mồ côi ạ, chị ấy ở với chú thím. - Mấy đứa bạn tôi đỡ lời.

- Thế này nhé - Đuy-sen lại mỉm cười nói với tôi - An-tơ-nai ạ, em sẽ dẫn các em khác đi học được chứ?

- Thưa chú được ạ

- Các em cứ gọi thầy là thầy. Các em có muốn xem trường không? Vào đây, đừng ngại gì cả

- Không, chúng em phải về nhà đây. - Chúng tôi rụt rè nói.

- Thôi được, các em chạy về nhà đi. Khi nào đến học các em sẽ xem sau vậy. Giờ chưa tối, thầy đi lấy rạ khô lần nữa đã.

Cầm lấy chiếc liêm và sợi dây, Ðuy-sen bước ra đông. Chúng tôi cũng đứng dậy cống những bao ki-giắc lên lưng và rảo bước về làng, [... ]

Tiết trời đã sắp sang đông

Trước những trận mưa tuyết đầu mùa, mỗi khi đi học, chúng tôi phải lội qua một con suôi lòng đá chảy róc rách dưới chân đôi. Nhưng về sau không thể nào lội qua được nữa, vì nước băng lạnh buốt cóng cả chân. Khô nhất là những em nhỏ, thậm chỉ chúng phải phát khỏe lên. Những lúc ấy, thấy Ðuy-sen đã bè Lưng thì cõng, tay thì bẻ và cứ như thể thay lần lượt đưa hết các em sang, quan tâm, chăm sóc các học trò của thầy Đuy-sen.

Giờ đây nhớ lại cảnh xưa, tôi thấy khó lòng mà tin được rằng tất cả những điều đó là có thật. Những lúc bảy giờ, không biết vì ngu dốt hay vì nông nổi, người ta đã cười thầy Đuy-sen, nhất là bọn nhà giàu thường trú qua mùa đông ở trên núi và chỉ xuống làng khi cần xay thóc. Đã nhiều lần gặp chúng tôi ở chỗ lội qua suối, bọn họ, đầu đội mũ lông cáo màu đỏ, mình mặc những chiếc áo lông cừu quý, nghễu nghện trên lưng những con ngựa hung dữ no căng, giương mắt nhìn thầy Đuy-sen rồi bỏ đi. Một tên trong bọn cười nắc lên và huých tay tên đi bên cạnh nói:

- Đứa thì cõng, đứa thì bề, trông đã hay chưa!

[...] Rồi họ quất cho ngựa chạy làm nước và bùn bắn tung toé lên chúng tôi, cười phá lên rồi đi khuất.

Sao lúc đó tôi muốn đuổi theo những con người ngu xuẩn ấy thế, muốn nắm lấy cương ngựa và quát thẳng vào những bộ mặt láo xược của họ: “Các người không được nói thầy giáo của chúng tôi như thế! Các người ngu lắm, các người tồi lắm.”

Nhưng liệu có ai chịu nghe lời một con bé thơ dại như tôi?

Và tôi chỉ còn biết nuốt những giọt lệ căm uất đang trảo lên, nóng hỏi. Còn thầy Đuy-sen thì đường như không để ý đến những lời lăng mạ đó, coi như không nghe thấy gì hết. Thường là thầy nghĩ ra một câu chuyện vui não đỏ khiến lũ chúng tỏi phá lên cười, quên mắt mọi sự.

Thầy Đuy-sen có cố gắng bao nhiêu cũng chưa kiểm đủ gỗ để bắc một chiếc cầu nhỏ qua suối. Có lần ở trường vẻ, sau khi đã đưa hết các em nhỏ sang, tôi cùng với thầy Đuy-sen dừng lại bên bờ suối. Chúng tôi quyết định lấy đá và những tảng đất cổ đắp thành các u nhỏ trên lòng suối để bước qua cho khỏi bị ướt chân.

Hôm chúng tôi xếp đá qua dòng nước, tuyết đã phủ đầy trên mặt đất và nước buốt đến chết cóng đi được. Tôi không tưởng được thầy Đuy-sen làm thế nào chịu nổi - vì thầy đi chân không, làm không ngơi tay. Tôi chật vật đặt chân xuống suối, tưởng chửng như dòng suối rải đây than hồng - nóng bỏng. Bỗng dưng đến giữa suối tôi bị chuột rút ở chân, người co rúm lại Tôi không thể kêu lên một tiếng, cũng không thể đứng thẳng lên được nữa vả từ từ ngã xuống nước. Thầy Đuy-sen lẳng tảng đá đi, nhảy ngày lại bên tôi, đỡ tôi lên tay, rồi bể tôi chạy lên bờ vả lót chiếc áo choàng đặt tôi ngồi vào đấy. Thảy hết xoa hai chân đã tìm bằm, cứng đờ như gỗ của tôi, lại bóp chặt đôi tay lạnh cóng của tôi trong lòng bàn tay mình, rồi đưa lên miệng hà hơi ám cho tôi.

Thầy Đuy-sen khẽ nói:

- An-tư-nai, em ngồi đây cho âm, đừng xuống nữa. Một mình thầy làm cũng đủ.

Cuối cùng khi những chỗ đặt chân xếp đã xong. Ðuy-sen vừa xỏ chân vào ủng, vừa nhìn nét mặt ỉu xìu, tái mét của tôi và mỉm cười hỏi

~ Thê này, cô em giúp việc, đã đỡ rét chưa? Khoác cái áo choảng lên, thẻ... thẻ! =

'Thây yên lặng một lát rồi hỏi:

- An-tư-nai, lần ấy có phải em trút lại ki-giắc ở trường không?

- Vâng ạ. - Tôi đáp

Thầy hơi nhếch mép mỉm cười, như thể tự nhủ: Mình đoán đúng mà!”

Tôi còn nhớ lúc ấy máu dồn lên má tôi nóng ran: như vậy nghĩa là thây đã biết và chưa quên một điều tưởng như nhỏ mọn ấy. Tôi sung sướng quá, lịm cả người đi và Đuy-sen cũng hiểu niềm hân hoan của tôi

- Dòng suối trong trẻo của thầy - thầy âu yếm nhìn tôi nói - em thông minh lắm Ôi, ước gì thấy được gửi em ra thành phố lớn. Em còn sẽ khá hơn biết chừng nào.

Đuy-sen bước nhanh lên bờ.

Và giờ đây tôi mường tượng thấy thầy đang đứng trước mặt tôi, như lúc bây giờ thầy đã đứng giữa dòng suối đá đang réo lên cảm âm, hai tay đề sau gáy và đôi mắt sáng long lanh đăm đắm nhìn theo những đám mây trắng xa tít đang bị gió thỏi cuồn qua các ngọn núi.

 

Thầy nghĩ gì khi ấy? Có thể thầy đang mơ tưởng cho tôi ra một thành phố lớn học thật chăng? Còn tôi lúc bấy giờ cuộn tròn trong chiếc áo choàng của thầy Đuy-sen. Tôi thầm nghĩ: “Ước gì thấy là anh ruột của tôi! Ước gì tôi được bà cô thầy, nhắm nghiền mắt lại và thủ thỉ với thây những lời đẹp để nhât! Trời ơi, ước gì thầy Đuy-sen là anh ruột tôi!”

Chắc chắn tất cả đám học sinh chúng tôi đứa nào cũng yêu mến thầy vi tấm lòng nhân từ, vì những ý nghĩ tốt lành, vì những tóc mơ của thì tương lai chúng tôi. Tuy chúng tôi còn bé, nhưng tôi nghĩ rằng lúc đó chúng tôi đều đã hiểu được những. điều ấy. Còn cỏ cải gì khác bắt chúng tôi ngày nào cũng đi xa, leo đồi lội suối, bạt hơi vì gió rét, chân ngập trong những côn tuyết như vậy được nữa? Chúng tôi tự nguyên đến trường. không ai phải xua chúng tôi đền cả. Không ai có thể buộc chúng tôi phải chịu cóng trong căn nhà kho lạnh lẽo. Tuy ngôi trong nhà, mà mỗi khi thở ra là hơi giá bám trắng xóa cả mặt mũi, tay chân, quần áo. Chúng tôi chỉ dám thay phiên nhau đứng sưởi cạnh lò, còn tất cả đảnh ngồi tại chỗ nghe thầy Đuy-sen giảng bài.

[..] Tôi mở tung các cửa sổ. Một luồng gió mát lùa vào phòng. Trong ánh lê minh xanh nhạt đang sáng dần tôi nhìn kỹ những bản nghiên cứu phác thảo của bức tranh tôi vừa khởi công. Những bức vẽ ấy đã nhiều lẫn vẽ đi vẽ lại từ đầu. Nhưng bây giờ mà nói vẻ toàn bộ bức tranh thì hãy còn sớm. Tôi vẫn chưa tìm ra cái chính... Tôi đi đi lại lại trong cảnh tĩnh mịch của buổi lê minh và cứ suy nghĩ, suy nghĩ mãi. Và lần nào cũng đều như thế. Lần nào tôi cũng lại thấy rõ ràng bức tranh của tôi chỉ mới là một ý đồ.

Tuy vậy tôi vẫn muốn nói với các bạn vẻ tác phẩm đở đang của tôi. Tôi muốn hỏi ý kiến các bạn. Chắc các bạn cũng đã đoán ra rằng bức tranh của tôi đành cho Người thầy đầu tiên của làng chúng tôi. [...] Tôi không thể không vẽ bức tranh nảy, nhưng sao tôi thấy băn khoăn, lo lắng quá! Có khi tôi tưởng chừng rồi sẽ chẳng ra gì hết. Và những lúc ấy tôi lại nghĩ: Tại sao số phận lại trớ trêu đặt cây bút vẽ vào tay tôi làm gì? Thật là một cuộc sống khổ ái! Lại cỏ khi tôi cảm thấy mình dũng mãnh đến nỗi dù có phải chuyển núi đời sống tôi cũng sẵn sàng. Và những khi ấy tôi nghĩ: Hãy nhìn đi, hãy nghiên cứu, chọn lọc. Hãy vẽ hai cây phong của Đuy-sen và An-tư-nai, chính hai cây phong đã cho tuổi thơ của mày bấy nhiêu giây phút sướng vui, mặc dù mày không biết rõ sự tích của chúng. Hãy vẽ một đứa bé đi chân không, đa rắm năng. Nó trèo lên cao, thật là cao và ngồi lên một cành phong, đôi mắt hân hoan nhìn vào cõi xa xăm kỳ ảo.

Hay là vẽ bức tranh để là “Người thầy đầu tiên”. Đó có thể là lúc Đuy-sen bế trẻ con qua con suối và cạnh đây, trên những con ngựa no nê hung đữ, những con người đần độn, mũ lông cáo đỏ đi qua đang chế giễu ông.

Nếu không, thì hãy về người thầy giáo tiễn An-tư-nai lên tỉnh. Mày còn nhớ khi ông cất tiếng gọi An-tư-nai lần cuối cùng! Hãy vẽ một bức tranh như thế, sao cho bức tranh ấy giống như tiếng gọi của Đuy-sen mà đến nay An-tư-nai vẫn còn nghe vắng lại, sẽ vang đội mãi trong lòng mỗi người.

 (Trin-ghi-đơ Ai-to-ma-tốp, Gia-mi-li-a (Jamilya) - Truyện núi đồi và thảo nguyên.

Phạm Mạnh Hùng - Nguyễn Ngọc Bằng - Cao Xuân Hạo - Bồ Xuân Tiến dịch.

NXB Kim Đồng. Hà Nội, 2019, tr 351 - 442)

>>>Xem thêm: Soạn bài Người thầy đầu tiên Ngữ văn 7 Kết nối tri thức


2. Tóm tắt Người thầy đầu tiên


Mẫu tóm tắt số 1

Tác phẩm “Người thầy đầu tiên” là lời kể của người họa sĩ An-tư-nai về một người thầy đáng quý của họ và của cả ngôi làng. Thầy Đuy-sen là một người thầy tuyệt với, với tâm lòng đồng cảm, yêu thương và bao bọc những hoàn cảnh khó khăn nhất là những học sinh của mình. Thầy ân cần chăm sóc học sinh của mình, không quản ngại thời tiết lạnh giá để cõng các em nhỏ qua suối. Thầy đưa cái chữ đến mọi người làng Cư-rơ-gư-dơ-xtan, thầy mong cho cô bé An-tư-nai có được điều kiện học tập tốt nhất để phát triển ước mơ của mình.


Mẫu tóm tắt số 2

“Người thầy đầu tiên” của tác giả A-mai-tốp nói về người thầy đầu tiên của làm Cư-rơ-gư-dơ-xtan, đó là thầy Đuy-sen. Thầy Đuy-sen là một người thầy luôn hết lòng vì học trò của mình, thầy không quản ngại khó khăn để đồng hành cũng học sinh trên con đường đi học mỗi sáng. Thầy cõng những học trò của mình qua con suối lạnh giá, thầy lấy đá, lấy đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối để bước qua cho khỏi bị ướt chân mà bỏ ngoài tai lời châm chọc của những kẻ cưỡi ngựa. Thầy đưa ước mơ, hoài bão của An-tư-nai thành hiện thực. Chính những điều tuyệt với về thầy Đuy-sen khi nghe An-tư-nai kể khiến cho người họa sĩ muốn vẽ một bức tranh thật đẹp về hai thầy trò


Mẫu tóm tắt số 3

Đoạn trích kể về tình thầy trò cảm động giữa cô học trò An-tư-nai thông minh, lanh lợi và người thầy đầu tiên, thầy Đuy-sen. Thầy Đuy-sen tuy trẻ tuổi nhưng đầy tâm huyết, ở thầy không chỉ có tình yêu nghề, mà còn có cả sự tận tụy, chăm sóc học trò của mình như một người anh trai. Không chỉ là người đưa học trò làng Cư-rơ-gư-dơ-xtan đến gần hơn với kiến thức, thầy Đuy-sen còn bế từng học sinh qua con suối lạnh buốt, bất chấp sự khinh thường của những kẻ cưỡi ngựa qua đường. Thầy hy vọng học trò ưu tú của mình, cô bé An-tư-nai có thể được lên thành phố học tập ở một môi trường tốt hơn để phát triển chính mình.


Mẫu tóm tắt số 4

Nội dung truyện được đặt vào bối cảnh vùng quê hẻo lánh của Kyrgyzstan vào giữa những năm 20 thế kỉ trước. Thời đó, trình độ phát triển ở đây còn thấp, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng nề, phụ nữ bị coi thường, trẻ mồ côi bị rẻ rúng.

Cô bé Altynai mồ côi sống trong gia đình chú thím ở làng Kurkureu, chẳng được học hành, và phải chịu sự giám sát, sai khiến hà khắc của bà thím. Dyuyshen được Đoàn Thanh niên Cộng sản cử về làng để mở trường, đã kịp thời cứu giúp, cho em đến trường học. Sau này Altynai trở thành nữ viện sĩ Altynai Xu-lai-ma-nô-va, còn thầy Dyuyshen về già đi đưa thư. Khi Altynai còn đang học ở trường làng, có hôm thầy Dyuyshen mang về trường hai cây phong non và bảo em: ''Hai cây phong này thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chờ chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt... Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này...''.


Mẫu tóm tắt số 5

Người thầy đầu tiên ca ngợi người thầy Đuy-sen với những tâm huyết, sự tận tụy và tình cảm mà thầy dành cho học sinh của mình, đặc biệt là An-tư-nai. Đuy-sen là một người thầy tuyệt vời, không chỉ vận động các học sinh tới trường, thầy còn tự tay cõng các em nhỏ qua suối, không quản thời tiết lạnh buốt hay bị những kẻ cưỡi ngựa châm chọc. Nhờ sự kiên trì và hết lòng bảo vệ, thầy Đuy-sen đã giúp An-tu-nai có cơ hội lên thành phố tiếp tục việc học hành. An-tư-nai rất yêu quý thầy Đuy-sen nhưng do hoàn cảnh, thầy trò phải xa cách rồi bật tin nhau. Mấy chục năm sau, An-tư-nai đã là một viện sĩ, trở về thăm làng và gặp lại người thầy đầu tiên của minh trong một tình huống rất éo le. Bà đã viết thư nhờ người hoạ sĩ đồng hương kể lại câu chuyện về thầy Đuy-sen như một hành động chuộc lỗi.


Mẫu tóm tắt số 6

Đoạn trích Người thầy đầu tiên là lời kể lại của người họa sĩ và An-tư-nai về một người thầy đầu tiên của họ và của cả ngôi làng. Đuy-sen là một người thầy tuyệt vời, không chỉ vận động các học sinh tới trường, thầy còn tự tay cõng các em nhỏ qua suối, không quản thời tiết lạnh buốt hay bị những kẻ cưỡi ngựa châm chọc. Thầy Đuy-sen quan tâm đến các học sinh và đặc biệt là An-tư-nai, mong cô bé có thể lên thành phố lớn học tập. Câu chuyện kể lại từ An-tư-nai khiến người họa sĩ đồng hương cảm thấy day dứt và muốn vẽ bức tranh thật đẹp về hai thầy trò.


3. Giá trị nội dung Người thầy đầu tiên

- Tác phẩm cho người đọc cảm nhận được niềm tin vào cuộc sống, đó là câu chuyện không chỉ của người thầy mà còn của người cha có tấm lòng cao cả.

- Người thầy đầu tiên đã thành công khắc học nên một câu chuyện tuyệt đẹp về tình thầy trog cũng như phản ánh được chế độ phong kiến lạc hậu với những quan niệm sai trái, không kém phần nặng nề.

4. Sơ đồ tư duy Người thầy đầu tiên

Tóm tắt Người thầy đầu tiên (Sơ đồ tư duy, nội dung chính)

>>>Xem thêm: Tác giả - Tác phẩm: Người thầy đầu tiên Ngữ văn 7 Kết nối tri thức

icon-date
Xuất bản : 24/07/2022 - Cập nhật : 24/10/2022