logo

Tính sùng cổ là gì?

Sùng cổ là tính lặp lại những mô phỏng văn chương của người xưa, mượn những điển tích điển cố, đề tài, cốt truyện để đưa vào thơ ca tạo nên một tác phẩm mới. Tính sùng cổ là một trong ba tính chất của ước lệ trong văn học trung đại Việt Nam.


Câu hỏi: Tính sùng cổ là gì?

Trả lời:

Sùng cổ là tính lặp lại những mô phỏng văn chương của người xưa, mượn những điển tích điển cố, đề tài, cốt truyện để đưa vào thơ ca tạo nên một tác phẩm mới. Sùng cổ thường hướng về quá khứ. Coi quá khứ là chuẩn mực của chân lý, của cái đẹp, của đạo đức.

Tính sùng cổ là một trong ba tính chất của ước lệ trong văn học trung đại Việt Nam.

[ĐÚNG NHẤT] Tính sùng cổ là gì?

Ước lệ bao gồm ba tính chất:

– Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ.

– Tính sùng cổ.

 – Tính phi ngã.


1. Tính uyên bác và cách điệu hóa cao đô: 

– Không phải ngẫu nhiên văn học chính thống thời phong kiến được mênh danh là văn chương bác học (Văn học dân gian gọi là văn học bình dân). Gọi như thế, văn chương mang trong mình nó tính bác học. Người sáng tác phải bác học và người tiếp nhận cũng rất bác học. Bởi đây là loại văn chương phòng khách, trà dư tưủ hậu.

– Văn chưong chính thống thời phong kiến mang tính qui phạm từ góc độ sáng tác đến thưởng thức. Giới văn học hẹp, chỉ quanh quẩn trong tầng lớp trí thức Hán học tài hoa, tao nhân mặc khách. Trường hợp Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là một thí dụ tiêu biểu. Độc giả của Nguyễn Khuyến là Dương Khuê, nên khi bạn văn mất, nhà thơ như muốn gác bút:   

Thơ muốn viết đắn đo chẳng viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa ?

– Sáng tác trong môi trường ấy, tất nhiên uyên bác có ý nghĩa thẩm mỹ. Người sáng tác cũng như người tiếp nhận đều phải thông thuộc kính sử, điển cố, điển tích; phải có vốn thi liệu, văn liệu phong phú học tập được từ những áng văn bất hủ của người xưa. Văn chương càng uyên bác càng có sức hấp dẫn lớn, có tính nghệ thuật cao.

Trước sau nào thấy bóng người

Hoa đào năm ngóai còn cười gió Đông    

(Nguyễn Du)  

Hay:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân gìau đủ khắp đòi phương.  

(Nguyễn Trãi)

 – Văn chương của tao nhân mặc khách, nên có khuynh hướng lý tưởng hóa, “văn chương hóa”, Các nhà văn thời ấy muốn tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng khác với thế giới đời thường. Cho nên, thế giới nghệ thuật của các trang văn thời này luôn được các nhà văn cách điệu hóa cao độ. Hình tượng nghệ thuật càng cách điệu hóa càng đẹp.

Quan niệm này đã làm nấy sinh thái độ xem thường văn xuôi, trong thơ ca. Trong cái nhìn của các nhà văn và độc giả văn học thời phong kiến, văn xuôi gần với đời sống thực tại, ít được cách điệu hóa; thơ mới là thứ ngôn ngữ giàu tính cách điệu. Con người trong văn chương phải đẹp một cách lý tưởng: tóc mây, mày liễu, mặt hoa, tay tiên, gót sen, vóc hạc,… Cử chỉ, đi đứng, ăn nói tựa như đang sống trong thế giới của nghệ thuật sân khấu:

Hài văn lần bước dặm xanh 

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao

Chàng Vương quen mặt ra chào

Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa

(Nguyễn Du)   

Tạo vật TN đi vào văn chương cũng phải thật sang quý và đẹp như mai, cúc, tùng, bách, liễu,… 

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

(Bà Huyện Thanh Quan) 

– Nhìn chung, văn chương thời ấy không chú ý tả thực. Tả thực nếu có, chỉ dùng cho những nhân vật phản diện phàm tục như Mã giám sinh, Sở Khanh, Tú bà; Bùi Kiệm, Trịnh Hâm:

Thoắt trông nhờn nhợt màu da 

Ăn chi cao lớn đẫy đà lám sao ?

(Nguyễn Du) 

                                          
Con người Bùi Kiệm máu dê 

Ngồi thề lê mặt như sề thịt trâu !

(Nguyễn Đình Chiểu)  

Người ta quan niệm con người không hòan thiện, hòan mỹ bằng tạo hóa, không tài hoa bằng hóa công. Vì thế, những gì cần lý tưởng hóa đều phải được so sánh với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho cái đẹp của con người. Con những tiểu nhân chỉ có thể so sánh với xác của chúng, mới tả thực.


2. Tính sùng cổ.

– Sùng cổ là tính lặp lại những mô phỏng văn chương của người xưa, mượn những điển tích điển cố, đề tài, cốt truyện để đưa vào thơ ca tạo nên một tác phẩm mới. Sùng cổ thường hướng về quá khứ. Coi quá khứ là chuẩn mực của chân lý, của cái đẹp, của đạo đức.

Ví dụ: Kiệt tác như Dụ chư tỳ tướng hịch văn của Trần Quốc Tuấn khi vị chủ tướng muốn khích lệ lòng yêu nước, lòng tận trung với chủ của các tướng sĩ dưới quyền để họ xông lên giết kẻ thù Nguyên Mông xâm lược, gìn giữ xã tắc thì tác giả lại nêu những tấm gương trung thần nghĩa sĩ được – chép ở sử sách Trung Quốc, tức của đối phương như Kỉ Tín, Do Vu, Dự lượng, Vương Công Kiên… Đó là tinh thần sùng cổ, sùng thượng, sùng ngoại, suy tôn Thánh hiền, do vậy đã tạo nên tính quy phạm trong văn học.

Việc sử dụng những điển tích trên còn nhằm mục đích ôn cố tri tân, lấy xưa để nói nay, dùng việc cũ, người cũ để nói việc mới, chuyện nay. Khi sáng tác, các tác giả còn vay mượn đề tài, cốt truyện, mô-tip, có khi cải biên cốt truyện để tạo nên một tác phẩm mới. Đây là sự tuân theo những kiểu mẫu, khuôn mẫu sẵn có đã thành công thức. Một loạt truyện Nôm Việt Nam như Ngọc Kiều Lê, Nữ Tú tài, Nhị độ mai, Hoa tiên truyện, Phù dung tân truyện, Đoạn trường tân thanh… là những ví dụ.

Văn học trung đại quay về quá khứ nên không có hình ảnh thiếu nhi, không có văn học trẻ con, trẻ con được miêu tả như người lớn.

Ví dụ: Vương Quan trong “Truyện Kiều”, (Đoạn Vương Quan kể cho Thúy Kiều nghe về cuộc đời của Đạm Tiên).


3. Tính phi ngã:  

– Thời phong kiến, ý thức cá nhân chưa có điều kiện phát triển. Con người chưa bao giờ “sống là mình”. Con người chỉ sống với không gian mà không sống cùng thời gian.

Con người được nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở của tầng lớp, giai cấp, dòng tộc, địa vị xã hội. Con người chỉ phân thành hai loại: quân tử và tiểu nhân.

– Chính điều kiện xã hội ấy đã sinh ra hệ thống ước lệ trong văn chương, một ước lệ nghệ thuật có tính phi ngã. Nhà văn cảm thụ và diễn tả thiên nhiên không bằng cái nhìn hữu ngã và bằng ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu do cá nhân mình sáng tạo.

– Tuy nhiên, nói văn học trung đại có tính phi ngã không có nghĩa trong tác phẩm văn chương không có dấu ấn bản ngã của người nghệ sĩ. Bởi lao động nghệ thuật là một họat động sáng tạo; văn học chân chính không chấp nhận công thức, phi ngã. Trong văn học thời trung đại của dân tộc ta, các cây bút lớn đều khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của họ. Tiến trình văn học đã khẳng định điều đó. Chúng ta không thể phủ nhận cá tính sáng tạo của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Tản Đà,… Chỉ có điều, do tính qui phạm NT; nên sự khác biệt trong tư tưởng và phong cách NTt của các cây bút ấy chỉ là những biến thức khác nhau của sự vận dụng những chuẩn mực chung của cộng đồng VH bấy giờ mà thôi.

icon-date
Xuất bản : 04/05/2022 - Cập nhật : 12/08/2023