logo

Thân bài Đất Nước

Tổng hợp các dạng Thân bài Đất Nước ngắn gọn, hay nhất. Hướng dẫn Cách viết thân bài cho các đề bài khác nhau trong tác phẩm Đất Nước.


THÂN BÀI CẢM NHẬN 9 CÂU THƠ ĐẦU CỦA BÀI THƠ ĐẤT NƯỚC

      Đất nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:

“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”

      Bốn từ “ngày xửa ngày xưa” sao quá đỗi quen thuộc với chúng ta. Nó xuất hiện trong những câu chuyện cổ tích bà kể, trong những lời ru tha thiết của mẹ ru con trong giấc say nồng. Nó thể hiện sự kì diệu về sự sinh thành và phát triển của Đất nước, của những đặc trưng rất riêng của con người Đất nước. Hình ảnh Đất nước vừa hiện lên vừa giản dị gần gũi, vừa thiêng liêng sâu lắng bởi nó gắn với thế giới tâm hồn con người, được nuôi dưỡng bởi việc truyền đời cho con cháu đời sau, những cái “ngày xưa” ấy là bao kỉ niệm cho những chiến tích lịch sử văn hóa đã qua. Đất nước được nói đến qua khía cạnh, bắt đầu với miếng trầu có nghĩa là Đất nước được hình thành trong lối sống tình nghĩa. “Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”, thể hiện lối sống giản dị, chân chất của con người Đất nước. Lối sống nghĩa tình ấy trở thành truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta. Đất nước được hình thành trong tình yêu nhưng lại lớn mạnh và trưởng thành nhờ những cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc

“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

      “Tóc mẹ thì bới sau đầu” hình ảnh người phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu, hình ảnh thật gần gũi, thân quen in sâu trong nếp nghĩ, gợi suy ngẫm về con người trong cuộc sống lam lũ vất vả nhưng vẫn duyên dáng, đẹp dịu hiền, đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn gợi suy ngẫm về cái đẹp giản dị mà thiêng liêng.

      Đất nước còn hiện lên trong sự gắn liền với một lối sống đẹp, cái cội nguồn của sự sống, đó chính là ân nghĩa vợ chồng. Con người Việt ta từ xưa đã luôn coi trọng đạo lý, coi gia đình và hôn nhân là điều thiêng liêng và đáng trân trọng. Cha mẹ sinh ra coi cái không phải nuôi con do trách nhiệm mà đó là nghĩa tình, đó là niềm hạnh phúc sum vầy của tình cảm gia đình, càng đông càng vui. Cuộc sống mưu sinh vất vả nhưng sự thủy chung, sắt son “đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn” đã giúp cho người Việt ta vượt lên tất cả. Cuộc sống bấp bênh, nhiều khó khăn vất vả, chỉ có “gừng cay” và “muối mặn” chứ ít khi ngọt ngào nhưng cũng chính vì lẽ đó mà con người ta biết trân trọng hạnh phúc nhiều hơn.

      Ý thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Tình yêu được sinh ra và nuôi dưỡng từ trong khó nghèo, từ trong những hoàn cảnh đầy thử thách thật đáng trân trọng, đáng quý. Đó là lối sống trọn nghĩa, trọn tình, thuỷ chung đã trở thành một truyền thống thiêng liêng được lưu truyền qua bao đời. Cũng chính từ cái tình cảm đáng quý ấy là một tấm gương, bài học đáng quý truyền đời cho các thế hệ sau về cách sống nhân nghĩa ân tình này.

      Đất nước còn được gắn liền với những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc “cái kèo, cái cột” nhưng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình, làng xóm, quê hương, Đất nước. Đất nước hiện lên qua cuộc sống lao động sinh hoạt: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Sự hình thành và phát triển của Đất nước là một quá trình lâu dài, nhờ những giọt mồ hôi của công sức lao động vất vả, một nắng hai sương mà có được. Con người lao động đã biết “xay, giã, giần, sàng” để tạo nên hạt gạo để xây dựng Đất nước no ấm. Những hình ảnh trên đều gần gũi, chân thành vô cùng. Cũng chính đi đi lên và trưởng thành trong gian khó mà nhân dân ta biết thương nhau, biết đến sự đoàn kết nhiều hơn, biết trân trọng những giá trị lao động và hun đúc ý chí con người quật cường và gan dạ.

      Nguyễn Khoa Điềm có điểm nhìn rất gần gũi, thân thuộc bình dị để miêu tả về Đất nước. Đến với bài thơ ta càng thêm thấu hiểu về quê hương Đất nước với những truyền thống, nét văn hóa đáng trân trọng và ngợi ca. Đất nước trong chúng ta chính là những tình cảm thân thương và gần gũi nhất.


THÂN BÀI BÌNH GIẢNG 9 CÂU ĐẦU BÀI THƠ ĐẤT NƯỚC - NGUYỄN KHOA ĐIỀM

      Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân, mang màu sắc chính luận. Đoạn trích “Đất nước” là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông. Đoạn trích thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước, và cái mới mẻ ấy thôi thúc chúng ta đi tìm cội nguồn của Đất Nước. Với 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm thể hiện quan niệm của mình về cội nguồn của Đất Nước thật đặc sắc.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…

      Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu, chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”, hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mĩ.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

      Câu thơ mở đầu là lời khẳng định tự nhiên, giản dị: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Đất Nước có từ “khi ta lớn lên”, từ khi ta chưa ra đời, xuyên suốt bốn ngàn năm văn hiến. Như vậy, Đất Nước tồn tại như một điều hiển nhiên, nó có chiều sâu cội nguồn cũng như sự hình thành và phát triển bao đời nay. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước thật gần gũi, hiện diện trong những câu chuyện cổ tích thường mở đầu bằng “ngày xửa ngày xưa”. Câu thơ khiến ta nhớ đến hình ảnh của người bà thường hay kể chuyện cho con cháu nghe, là hình ảnh cô Tấm bị mẹ con Cám bắt nạt, là hình là nàng tiên bước ra từ quả thị… Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” thật quen thuộc và gần gũi với con người Việt Nam. Bởi, mỗi câu chuyện là mỗi bài học đạo lí dạy ta biết “ở hiền gặp lành”, biết thiện thắng ác, biết sống thủy chung,… Tác giả không dùng từ ngữ, hình ảnh hoa mĩ tráng lệ mang tính biểu tượng để thể hiện Đất Nước mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người. Tác giả giúp ta tìm hiểu Đất Nước có từ nền văn hóa dân gian cha ông ta để lại.

      Tác giả cảm nhận Đất Nước gắn với phong tục tập quán, hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

      “Miếng trầu bà ăn” là miếng trầu tình nghĩa trong “sự tích trầu cau” khiến ta rưng rưng nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó, hình ảnh “trầu cau” trở thành “miếng trầu là đầu câu chuyện”, trở thành thứ không thể thiếu được trong lễ cưới, tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thủy chung.

“Tóc mẹ thì bới sau đầu”

      Đó là hình ảnh đặc thù của người phụ nữ Việt Nam, thùy mị, duyên dáng và thật đáng yêu. Nét đẹp ấy làm ta gợi nhớ đến câu ca dao:

“Tóc ngang lưng vừa chừng em búi

Để chi dài bối rối lòng anh”

      Không những chỉ là những cảm nhận ở trên về Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận Đất Nước trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình nặng nghĩa như “gừng cay muối mặn”.

“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

      Dù gian nan, dù cay đắng nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng, thắm thiết. Hình ảnh thơ gợi ta nhớ câu ca dao:

“Tay bưng đĩa muối, chén gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

      Hay

 “Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng vẫn hãy còn cay

Đôi ta tình nặng nghĩa đầy

Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”

      Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.

      Đất Nước ta từ ngàn đời đã có truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc:

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

      Hình ảnh “cây tre” là biểu tượng của người Việt Nma, gắn với đời sống thường ngày và có lúc trở thành vũ khí xông pha ra chiến trường đánh giặc, Thánh Gióng từng nhổ tre đánh giặc Ân, nhà văn Thép Mới cũng từng nhận ra:

“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”

      Tre thật thà chất phác, đôn hậu, yêu thủy chung yêu chuộng hòa bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong chiến tranh. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa cho dân tộc:

“Một cây chông cũng tiến công giặc Mĩ”

      Bởi

“Nòi tre đâu chịu mọc cong

Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”

      Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó:

“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sáng”

      Thành ngữ “một nắng hai sương” và các động từ liên tiếp xay, giã, giần, sàng gợi lên sự vất vả và triền miên của người nông dân trên đồng rộng. Đất Nước gắn với nền văn minh lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bảo, gắn liền với quá trình lao động vất vả để có được hạt gạo, để sinh tồn. Ý thơ thật sâu sắc. Câu thơ gợi nhắc đến ca dao:

“Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cà

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

      Từ Đất Nước viết hoa diễn tả tình cảm thiêng liêng đối với Đất Nước. Giọng thơ trữ tình, câu thơ dài ngắn đan xen thể hiện cảm xúc tư nhiên, phóng khoáng. Ngôn ngữ giản dị, sử dụng sáng tạo các chất liệu từ văn học dân gian tạo chiều sâu cho ý thơ.

      Đất Nước đối với Nguyễn Khoa Điềm là những gì bình thường, gần gũi nhất. Nó có trong cổ tích, ca dao, gắn liền với nguồn mạch quê hương để làm nên một chân dung trọn vẹn về Đất Nước: Thân thương mà hào hùng, vất vả mà thủy chung.

icon-date
Xuất bản : 16/04/2021 - Cập nhật : 16/04/2021