logo

Phân tích bài Đất nước học sinh giỏi

Tuyển tập Phân tích bài Đất nước học sinh giỏi cực hay, chi tiết, đầy đủ nhất dành cho các bạn học sinh giỏi và thầy cô giáo chuyên văn.


Phân tích bài Đất nước học sinh giỏi - Bài mẫu 1

      Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc, bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần của dân tộc.

      Khác với các nhà thơ cùng thế hệ – thường tạo một khoảng cách khá xa để chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước, với các từ ngữ, hình ảnh kì vĩ, mỹ lệ có tính chất biểu tượng. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.

      Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta, từ lời kể chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán quen thuộc cho đến tình nghĩa thủy chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng ngày, cái kèo, cái cột trong nhà,…tất cả những nhiều đó làm cho Đất Nước trở nên gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hàng ngày của con người.

      9 câu mở đầu của chương Đất Nước, nhà thơ suy tư về cội nguồn của đất nước, của dân tộc “Đất nước có tự bao giờ”

Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có từ ngày đó…

      Đất nước không phải là những gì trừu tượng , xa lạ mà bắt nguồn từ những gì gần gũi, thân thiết, bình dị nhất trong đời sống tinh thần, vật chất của mỗi gia đình, mỗi người Việt Nam. Với giọng điệu tâm tình thủ thỉ, nhà thơ gợi lên không khí trầm lắng dẫn người đọc ngược dòng thời gian trở về cuội nguồn của Đất nước. Đất nước bắt nguồn từ “ngày xửa ngày xưa”, từ cái nhịp điệu đò đưa ngàn đời của lời ca, lời kể của cánh võng, vừa gợi lên cái xa xăm của chiều dài lịch sử, vừa gần gũi thân quen trong kí ức và đời sống mỗi người. Bởi ai cũng lớn lên bởi một vành nôi với lời ru, lời kể trầm bổng ngân nga của bà của mẹ.

      Đất nước không chỉ ở trong tiềm thức kí ức mà Đất nước còn là những gì gần gũi, thân quen ngay trong đời sống vật chất của con người. Nguyễn Khoa Điềm luôn dẫn người đọc đến một triết luận, cái hiện tại lớn lên từ trong quá khứ, cái lớn lao lại bắt đầu từ những điều nhỏ bé bình dị, tưởng vô lí mà lại rất có lí: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bay giờ bà ăn”. Hai chữ “miếng trầu” gợi ra cho người đọc suy nghĩ về phong tục, tập quán ngàn đời của dân tộc “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, miếng trầu trong truyện cổ tích Trầu cau mang truyền thống nhân văn cao đẹp của tâm hồn dân tộc. Đất nước thật lớn lao kì vĩ nhưng chẳng phải đã bắt đầu từ những điều nhỏ bé đó sao !

      Đất nước còn có trong những phong tục tập quá, thói quen, ngôn ngữ, tên gọi…tất cả những gì có trong đời sống con người:

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương, xay, giã, giần, sàng

      Đất nước không xa lạ mà ở ngay trong thói quen bới tóc sau đầu của mẹ, trong tình nghĩa sâu nặng của vợ chồng, trong ngôi nhà ấm áp, trong hạt gạo trắng ngần một nắng hai sương, trong sự hình thành ngôn ngữ của dân tộc – cái kèo cái cột cũng thành tên,…

      Đất nước không chỉ hình thành từ trong không gian tinh thần, trong kí ức mà đất nước còn lớn lên cùng chiều dài lịch sử, gắn với truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc: “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Câu thơ nhắc nhở ta về cội nguồn, về truyền thuyết Thánh Gióng. Hình ảnh cậu bé vươn vai thành tránh sĩ nhổ tre đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi là biểu tượng sức mạnh quật cường của Đất nước đứng lên trong suốt hơn bốn ngàn năm lịch sử đáu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.

      Kết lại đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định: Đất nước bây giờ là “Đất nước có từ ngày đó”. Có thể nói 9 câu thơ là những phát hiện mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất nước. Những câu thơ không tạo hình màu sắc nhưng lại có sức gợi liên tưởng mạnh mẽ, dẫn người đọc từ hiện tại trở về với quá khứ, từ quá khứ đến hiện tại, từ cái tưởng như kì vĩ xa lạ nhưng lại rất gần gũi thân quen, từ cái vô hình trở nên hữu hình…Tất cả đều toát lên một tinh thần “Đất nước của Nhân dân” thật đặc sắc, hấp dẫn và thuyết phục người đọc.

      Đất nước là không gian địa lí, thời gian lịch sử, bề dày, chiều sâu văn hóa, truyền thống, tinh thần dân tộc. Ở đoạn thơ này tác giả tiếp tục lí giải: “Đất nước là gì ?”

Đất là nới anh đến trường

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.

      Đất nước được cấu tạo từ những từ gốc nghĩa là nơi ở của ông bà, tổ tiên, là miền đất cội nguồn, là nơi sinh, là quê hương. Còn trong tâm thức văn hóa Việt, Đất nước được tạo bởi hai yếu tố “Đất” và “Nước”

      Với tư duy nghệ thuật sắc sảo, sáng tạo, nhà thơ đã tách thành hai yếu tố Đất – Nước để tạo nên nhiều liên tưởng bất ngờ, sinh động. Đất gắn với anh, Nước gắn với em, khi anh và em yêu nhau thì Đất nước gắn bó, hòa quyện vẹn tròn, to lớn. Sự hòa hợp giữ “Đất” và “Nước” để tạo thành “Đất nước” không chỉ là ngôn ngữ, là văn hóa, mà còn là “Thời gian đằng đẵng/ Không gian mênh mông”. Đất nước là không gian sinh tồn hết sức thân quen: con đường anh đến trường, bến nước anh tắm, mảnh đất ta sinh ra và lớn lên, mà còn là quê hương của tinh thần, tình yêu đôi lứa “Nơi ta hò hẹn”, “Nơi anh đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”,…Đất nước là không gian rộng lớn của núi rừng, trời biển, nơi cộng đòng sinh sống, nơi “Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, là nơi “Con cá ngư ông móng nước biển khơi”, “nơi dân mình đoàn tụ”.

      Đất nước là “thời gian đằng đẵng”. Cảm nhận của nhà thơ đưa ta ngược dòng lịch sử trở về với huyền thoại đất tổ “Chim về”, “Rồng ở”, “Lạc Long Quân và Âu cơ / Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”…cho đến hôm nay vẫn thăm thẳm trong nỗi nhớ của mỗi người đất Việt…. “Những ai đã khuất” và trách nhiệm của “Những ai bây giờ” sinh con đẻ cái, gánh vác phần việc của người đi trước còn để lại, dạy dỗ con cháu chuyện mai sau phải biết uống nước nhớ       nguồn “Cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”, tiếp nối truyền thống con Lạc cháu Rồng gìn giữ non sông.

      Có thể nói Đất nước trường tồn ở trong con người, truyền qua các thế hệ, trên chiều rộng của không gian, chiều dài của lịch sử, trong các bình diện văn hóa phong tục, tâm hồn, tinh thần truyền thống của dân tộc, trong đời sống hàng ngày và trong những biến cố lịch sử, trong hiện tại và quá khứ. Đây chính là cái nhìn toàn diện, tổng hợp nhiều chiều của nhà thơ về Đất nước.

Trong anh và em hôm nay

Làm nên đất nước muôn đời…

      Vẫn giọng điệu thơ trữ tình chính luận nhưng tâm tình, sâu lắng, nhà thơ mượn hình thức trò chuyện của đôi trai gái yêu nhau để tiếp tục trả lời cho câu hỏi: “Đất nước ở đâu?”

      Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh hóa vào trong anh và em, trong cuộc sống mỗi người:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

      Đất Nước mang tầm khái quát to lớn, thiêng liêng nhưng lại thật nhỏ bé khi hóa vào máu thịt, số phận của mỗi con người. Như vậy, nhà thơ khẳng định mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng. Đất nước là quan hệ máu thịt, chặt chẽ không thể chia tách. Đất nước hài hòa, nồng thắm, vẹn tròn to lớn, phát triển đi xa đến những tháng ngày mơ mộng, là kết tinh bởi hai chữ “cầm tay” – biểu tượng của tinh thần đoàn kết trong tình yêu đôi lứa, trong mỗi gia đình và trong cộng đồng xã hội. Sự hòa quyện gắn bó giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu Tổ quốc. Nói về mối quan hệ này, nhiều nhà thơ cũng viết:

Anh yêu em như yêu Đất Nước

Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần

                                     (Nguyễn Đình Thi)

Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt

Như mẹ, như cha, như vợ, như chồng

Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, non sông.

                                 (Chế Lan Viên)

      Vì thế tránh nhiệm của anh, em và thế hệ mai sau phải mang Đất Nước đi xa, đến những tháng ngày mộng mơ. Đó là Đất Nước hòa bình, công bằng, ấm no, hạnh phúc. Khổ thơ cuối là lời nhắn nhủ thiết tha đối với thế hệ trẻ về trách nhiệm, nghĩa vụ công dân:

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời

      Tác giả khẳng định Đất Nước là máu xương của mình, phải biết gắn bó, san sẻ, hóa thân, hi sinh cho dáng hình xứ sở, làm nên Đất Nước muôn đời. Trách nhiệm của tuổi trẻ, của mọi công dân là xây dựng, bảo vệ cho Đất Nước trường tồn mãi mãi. Đó là chân lí vĩnh hằng của dân tộc.

      Thơ trữ tình – chính luận nói về vai trò của nhân dân với Đất Nước mà không lên gân, bởi nhà thơ vận dụng rất khéo léo và tinh tế qua hình thức trò chuyện tâm tình của đôi trai gái yêu nhau: “Em ơi em” làm cho lời thơ mềm mại, ngọt ngào, thấm sâu. Nhà thơ nói “em” mà như nói với tất cả mọi người, tình yêu, trách nhiệm đối với Đất Nước không chỉ của anh, em trong thơ mà nó là cuộc sống, là trách nhiệm của tất cả chúng ta với Đất Nước.

      Lịch sử có những bước đi thật dài, tầm vóc của dân tộc cứ theo chiều dài lịch sử mà không ngừng tỏa sáng. Đoạn thơ đã đem đến cho người đọc nhận thức sâu sắc về đất nước, đất nước thiêng liêng to lớn vô cùng nhưng cũng thật gần gũi, gắn bó với tình yêu, cuộc sống con người. Hình ảnh thơ mộc mạc giản dị, gọng điệu thơ nhẹ nhàng sâu lắng thấm đẫm chất suy tư, trào dâng về một niềm tự hào về một đất nước có bề dày về truyền thống lịch sử, có bề rộng không gian và chiều sâu văn hóa, tinh thần.

      Nếu như các phần trước của đoạn trích “Đất Nước”, nhà thơ lí giải: Đất Nước có từ bao giờ? Đất Nước là gì ? Đất Nước ở đâu? thì ở phần này nhà thơ tiếp tục lí giải Ai làm ra Đất Nước?

      Mười hai câu thơ tiếp theo chính là sự hóa thân của Nhân dân vào Đất Nước.

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

      Đoạn thơ là những phát hiện mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về những cảnh quan kì thú của non sông gấm vóc: đá Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên…đây không chỉ là những tặng vật của thiên nhiên tạo hóa mà đã gắn với cuộc sống con người, với văn hóa, lịch sử dân tộc qua những áng ca dao, những truyền thuyết cổ tích, qua những cuộc vệ quốc vĩ đại của nhân dân. Nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng qua những cuộc chiến tranh li tán thì làm sao có được cảm nhận về đá Vọng Phu ? Nếu không có truyền thuyết về người anh hùng Thánh gióng nhổ tre đánh giặc thì làm sao có được những cảm nhận về những ao đầm để lại chính là gót ngựa của Người? Nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì làm sao có được cảm nhận về vẻ đẹp của núi non quanh đất Phong Châu như chín mươi chín con voi chầu về đất Tổ? Nét đặc sắc ở đây là cái nhìn của nhà thơ thấm sâu ý thức về nhân dân. Nhân dân hóa thân vào Đất Nước: những người vợ chờ chồng tạo nên đá Vọng Phu, cặp vợ chồng yêu nhau tạo nên hòn Trống Mái, những học trò nghèo hiếu học tạo nên núi Bút, non Nghiên, những tên đất, tên làng mang tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…thật bình dị nhưng họ là những người làm nên Đất Nước. Nhà thơ không cảm nhận những cảnh quan kì thú đơn thuần là thắng cảnh thiên nhiên mà trong đó là chiều sâu số phận, cảnh ngộ, công lao của mỗi người dân đã đóng góp, hóa thân vào Đất Nước. Đất Nước thấm sâu vào tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Từ đó nhà thơ đi tới một khái quát giàu chất suy tư và triết luận về sự hóa thân của nhân dân vào đất nước:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống cha ông

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

      Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Điềm là thế giới vừa mộc mạc, dân dã, vừa đẹp lấp lánh những chất liệu văn hóa dân gian. Chất liệu ấy thấm vào ngôn ngữ và cấu trúc hình tượng trong những câu thơ để hình tượng nhân dân hiện diện khắp nơi, trên ruộng đồng gò bãi, trong lối sống, trong ao ước, khát vọng, trong suốt dọc dài Đất Nước hơn 4000 năm…đã trở thành chủ nhân, linh hồn của lịch sử dân tộc, của Đất Nước.

      34 câu còn lại của đoạn thơ dồn nén, hội tụ đỉnh cao của cảm xúc trữ tình – Đất Nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại. Đi suốt cuộc trường chinh đầy máu lửa của dân tộc là hình tượng nhân dân anh hùng, những con người vô danh – họ là lực lượng nòng cốt xây dựng, bảo vệ, làm ra Đất Nước.

      Nhìn về bốn nghìn năm lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm không ca ngợi các triều đại, không nói đến các anh hùng lưu danh sử sách mà tập trung nói đến những con người vô danh, bình dị. Vẫn giọng điệu thiết tha tâm tình “Em ơi em”, Nguyễn Khoa Điềm hướng người đọc nhìn về chiều sâu quá khứ bốn ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước của nhân dân “Năm tháng nào cũng người người, lớp lớp” họ là những người “con gái, con trai bằng tuổi chúng ta” bây giờ, khi đất nước hòa bình họ cần cù lao động, khi đất nước chiến tranh họ sẵn sàng xả thân “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, hiến trọn tuổi thanh xuân cho đất nước được hòa bình.

      Những người con ưu tú của Đất Nước, họ đã sống và chết, giản dị và bình tâm. Họ đã trở thành anh hùng, không ai nhớ mặt đặt tên chỉ giản đơn như người ta thường gọi: chiến sĩ vô danh nhưng họ là những người bất tử, hóa thân cho dáng hình xứ sở trường tồn – họ đã làm ra Đất Nước.

      Không chỉ lao động, bảo vệ và xây dựng đất nước, nhân dân còn có trách nhiệm truyền lại cho con cháu mai sau những giá trị văn hóa, tinh thần, vật chất của dân tộc: từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên làng, tên đất. Từ việc phải biết cấy trồng, đắp đập be bờ, giữ gìn cuộc sống đến việc chống thù trong giặc ngoài giữ yên đất nước. Từ đó nhà thơ đưa ta đến tư tưởng ngọn nguồn về vẻ đẹp văn hóa dân gian:

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

      Đoạn trích Đất Nước được thể hiện qua hình thức trò chuyện tâm tình của đôi trai gái, những khám phá, nhận thức, nghĩ suy về đất nước được phát triển bằng lời tâm sự giàu chất suy tư, giọng điệu trữ tình – chính luận sâu lắng, tha thiết. Bên cạnh đó, tác giả đã tạo ra trong đoạn trích một không gian đầy màu sắc sử thi, đưa người đọc vào thế giới của truyền thuyết, ca dao, thần thoại với đầy những nét mới mẻ và hấp dẫn.

      Khép lại đoạn thơ ta có thể thấy rằng Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm chính là đất nước  của Nhân dân, của ca dao thần thoại. Những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ kết hợp với những suy tư đã tạo nên nét đặc sắc cho bài thơ. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu sắc thêm ý niệm về Đất nước của thơ ca chống Mỹ.


Phân tích bài Đất nước học sinh giỏi - Bài mẫu 2

      Nguyễn Đình Thi là nhà thơ có nhiều đóng gió to lớn cho sự nghiệp phát triển của đất nước, ông là nhà thơ yêu nước và đã hình dung ra một đất nước anh hùng trong thơ ca của mình để từ đó nhân dân ta có những sáng tác hào hùng về những quãng thời gian đó, tự hào và nổi bật lên đó là bài thơ đất nước.

      Thơ của Nguyễn Đình Thi dạt dào tình cảm và đó là những tình cảm về tình yêu quê hương đất nước, đất nước trong thơ ca của ông là một đất nước chịu nhiều đau thương nay biết vươn lên đấu tranh để tạo nên những khoảng thời gian sáng lòa trong giây phút hào hùng của dân tộc, thơ của ông mang những cung bậc cảm xúc riêng và nó thấm đẫm tư tưởng và những niềm tự hào sâu sắc, đất nước nó là một chủ đề mà biết bao nhưng thi sĩ đã sáng tác nhưng đối với thơ ca của Nguyễn Đình Thi nó lại có những điểm độc đáo và riêng biệt, bài thơ này là những suy nghĩ và trăn trở về một đất nước, từ đó tác giả đã có những cảm xúc dạt dào và nó sâu lắng trong tâm hồn của tác giả, ông đang hình dung lại những hình ảnh về một đất nước sâu lắng từ xưa đến nay, hình ảnh đó đã vang dội và làm sáng lòa lên một đất nước hào hùng nhưng phải chịu nhiều đau thương, những nỗi niềm đó đã được thể hiện một cách sâu sắc và thầm kín:

Sáng mát trong như sáng năm xưa 

Gió thổi mùa thu hương cốm mới 

Tôi nhớ những ngày thu đã xa 

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội 

Những phố dài xao xác hơi may 

Người ra đi đầu không ngoảnh lại 

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

      Một nỗi nhớ nghẹn ngào trong thơ ca của tác giả khi ông thể hiện những hình ảnh đó thật sinh động và mang những cũng bậc cảm xúc riêng, đó là những hình ảnh đất nước đã biết vươn lên từ những đau thương của chiến tranh để có những giây phút lắng đọng trong tâm hồn của con người tác giả đang hình dung lại hàng loạt những hình ảnh đó để nói lên những cảm xúc ngọt ngào trong tâm hồn của mình, những hình ảnh về màu thu Hà Nội đã được tác giả thể hiện một cách sinh động và vô cùng hấp dẫn, hình ảnh hương cốm và những làn gió thu ngào ngạt đủ để cho tác giả nhớ thương tới vùng quê hương của mình, những con phố dài lê thê cùng với hương cốm bay ngào ngạt trong những khoảng không gian của mùa thu đã làm cho tác giả đang nhớ mong về thời gian của mình, tác giả dường như đang gợi nhớ lại những kỉ niệm mà trong đó có những hình ảnh gợi tả cảm giác và những nỗi nhớ mong sâu lắng. Hình ảnh về mùa thu làm cho tâm hồn của tác giả có những se lạnh và buồn trong tâm hồn đó là những khoảng thời gian mà tác giả đang nhớ mong lại trong khoảng thời gian của mình, những hình ảnh đó đã tạo nên những nỗi nhớ mong da diết:

Mùa thu nay khác rồi 

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi 

Gió thổi rừng tre phấp phới 

Trời thu thay áo mới 

Trong biếc nói cười thiết tha! 

Trời xanh đây là của chúng ta 

Núi rừng đây là của chúng ta 

Những cánh đồng thơm mát 

Những ngả đường bát ngát 

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

      Tác giả không muốn ra đi khỏi vùng đất yêu thương này trong tâm hồn của tác giả đã thấm đượm những cảm xúc khó quên nó mang đậm màu sắc và những hình ảnh của quê hương đủ để cho tác giả không ngừng nguôi nhớ về những quãng thời gian ở đây, nó đã mang đậm trong tâm hồn của tác giả bởi những hình ảnh quen thuộc và cũng đậm đà bản sắc của một vùng quê đang tha thiết yêu thương, và mang đậm tình yêu và nỗi nhớ về một miền quê tha thiết, tác giả đã thể hiện những điều đó qua những cung bậc tình yêu ngọt ngào của mình đối với miền đất cổ kính này. Khi đi về một miền đất mới tác giả cũng không ngừng nguôi nhớ về màu thu Hà Nội nhưng đó chỉ còn là trong kí ức những từ ngữ mà tác giả thể hiện nó thật khác, mùa thu ở Việt Bắc và mùa thu Hà Nội đã có những khác nhau và tác giả đã nói về những nỗi khác nhau đó, mùa thu ở Việt bắc không còn mùi hương cốm bay ngào ngạt nữa mà nay chỉ còn thấy đồi núi và rừng cây, cánh đồng và dòng sông:

Những buổi ngày xưa vọng nói về! 

Ôi những cánh đồng quê chảy máu 

Dây thép gai đâm nát trời chiều 

Những đêm dài hành quân nung nấu 

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. 

Từ những năm đau thương chiến đấu 

Ðã ngời lên nét mặt quê hương

      Trong một miền đất mới đã thể hiện được những cảm xúc của tác giả chuyển lên vùng đất này tác giả đang sâu lắng trong tâm hồn những hoài niệm và tình cảm đó đã thắm thiết qua từng trang sách của ông, tình yêu thương về một miền mất mới đã làm cho chúng ta có những cảm xúc đặc biệt và vùng đất này là một vùng đất đã thấm đậm những cảm xúc mới một niềm tin về một đất nước anh hùng đã được thể hiện sâu động trong từng tác phẩm, những cung bậc khác nó cũng thể hiện được chi tiết và cảm xúc mà tác giả muốn thể hiện, những cánh đồng bát ngát, những rừng cây bạt ngàn và cả một tâm hồn hứa sẽ hy sinh để bảo vệ cho đất nước của chúng ta, mỗi hình ảnh là một niềm tin bất tận về những đau đớn trong hoàn cảnh của đất nước, niềm tin yêu đó đã tạo nên những điều ngọt ngào và sâu lắng hơn trong tim mỗi người, vùng chiến đấu mới có rất nhiều những gian nan và nguy hiểm nhưng chúng ta cần cố gắng và anh dũng để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, những phấn đấu mạnh mẽ đó tạo nên cho chúng ta những hoài niệm cổ và nó mang đậm dấu ấn sâu sắc, những niềm tin yêu và những điều bất tận trong tâm hồn của mỗi nhà thơ:

Khói nhà máy cuộn trong sương núi 

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng 

Ôm đất nước những người áo vải 

Ðã đứng lên thành những anh hùng.

 

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội 

Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh 

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới 

Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

 

Súng nổ rung trời giận dữ 

Người lên như nước vỡ bờ 

Nước Việt Nam từ máu lửa 

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

      Đất nước ta đã trải qua những thời kì đau thương và giờ đây khi những người anh hùng của đất nước đã đứng lên chúng ta có quyền tự hào và có những âm điệu khác thể hiện được những nỗi nhớ thương đó, hình ảnh về một đất nước anh hùng về một đất nước mến thương đã thể hiện được trong tim của tác giả, tác giả đã hình dung và dùng lời thơ sắc đá của mình để nói về một đất nước anh hùng


Phân tích bài Đất nước học sinh giỏi - Bài mẫu 3

      Nguyễn Đình Thi sáng tác bài thơ Đất nước bắt đầu từ năm 1948 và hoàn thành vào năm 1955, sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Bài thơ gồm hai phần. Phần đầu được hình thành trên cơ sở những đoạn trích từ hai bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949). Phần sau được viết năm 1955. Đất nước được nhìn qua một không gian – thời gian độc đáo: mùa thu với mốc son lịch sử là sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tuy được viết trong những thời gian khác nhau nhưng cảm hứng thơ vẫn liền mạch và bài thơ là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh.

      Nguyễn Đình Thi đã đúc kết những cảm xúc và suy ngẫm của mình về đất nước trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng thơ của tác giả kéo dài theo suốt hành trình kháng chiến, được nối kết với lịch sử oai hùng bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước và liên tưởng mở rộng tới tương tai tươi sáng của cách mạng. Đó chính là cảm hứng về một đất nước vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần được triển khai theo hướng từ cụ thể đến khái quát.

      Trong bài thơ này, Nguyễn Đình Thi đã thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của mình về đất nước bằng hình ảnh mùa thu xưa, mùa thu nay và hình ảnh đất nước đau thương, bất khuất, anh hùng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thông qua đó, nhà thơ bày tỏ tình yêu đất nước, lòng căm thù giặc, niềm tự hào, niềm tin son sắt vào tương lai tươi sáng của dân tộc và đất nước.

      Bài thơ chia làm hai đoạn: đoạn thứ nhất từ đầu đến …vọng nói về, đoạn thứ hai là phần còn lại. Mạch cảm xúc và suy tưởng cũng là kết cấu cơ bản của bài thơ. Khởi đầu là cảm xúc về một sớm mùa thu ở chiến khu Việt Bắc gợi nhớ về mùa thu đã xa của Hà Nội. Nỗi nhớ về mùa thu xưa dẫn dắt cảm xúc về mùa thu nay, mùa thu cách mạng với niềm tự hào của người công dân được làm chủ đất nước. Cảm xúc nâng cao, mở rộng về đất nước trong đau thương, căm hờn đã vùng lên chiến đấu bất khuất và chiến thắng vẻ vang: Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

      Mở đầu bài thơ là cảm giác lâng lâng của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời mùa thu Việt Bắc, gợi nhớ về những ngày thu đã xa của Hà Nội mến yêu:

Sáng mát trong như sáng năm xưa,

Gió thổi mùa thu hương cốm mới.

      Chỉ bằng vài nét gợi tả mà tác giả đã thể hiện được không gian, thời gian, màu sắc, hương vị của mùa thu: không khí mát trong, gió thổi phảng phất mùi hương cốm mới, kết tinh của hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu. Hình ảnh mùa thu trong quá khứ và thực tại đan xen trong tâm tưởng của nhà thơ.
Mùa thu Hà Nội với những nét đặc trưng của khung cảnh thiên nhiên và con người hiện ra thật cụ thể, sinh động:

Tôi nhớ những ngày thu đã xa 

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội 

Những phố dài xao xác hơi may 

Người ra đi đầu không ngoảnh lại 

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

      Làn gió heo may se lạnh thổi dọc lòng những con phố nhỏ, làm xao xác hàng cây, với những thềm nắng lá rơi đầy. Ẩn sau những câu thơ tả cảnh là Hà Nội thanh lịch có bề dày bốn nghìn năm lịch sử với Hồ Tây, Hồ Gươm, đền vua Lê, Tháp Bút, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc… Những di tích, danh lam thắng cảnh ấy là niềm tự hào to lớn của bao thế hệ người Hà Nội. Mùa thu Hà Nội giống như một bức tranh với đường nét mềm mại, màu sắc và ánh sáng hòa hợp gây ấn tượng sâu đậm, chất chứa tâm trạng. Trên cái nền phong cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh những chiến sĩ hào hoa, dũng cảm, tạm xa Thủ đô thân yêu để lên đường kháng chiến. Người ra đi đầu không ngoảnh lại đầy ý chí và quyết tâm nhưng lòng thì vẫn vấn vương, vẫn cảm nhận được bằng cả tâm hồn cái sắc vàng xao xuyến: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. Câu thơ vừa thực vừa ảo. Tình thơ vương bao nhiêu lưu luyến bên trong. Nhịp thơ ngập ngừng, bâng khuâng như lòng người bâng khuâng, quyến luyến. Thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là bóng dáng khách chinh phu dứt áo ra đi vì nghĩa lớn: Tráng sĩ nhất khứ bất phục phản (Tráng sĩ một đi không trở lại). Cái không khí chớm lạnh, cái sắc nắng thu vàng một màu li biệt càng làm tăng thêm phong vị cổ điển của câu thơ, cảnh thu Hà Nội đẹp nhưng buồn vắng đến nao lòng.

      Có thể nói bốn câu thơ miêu tả mùa thu Hà Nội là những câu thơ gây ấn tượng nhất trong bài. Nó phản ánh tâm hồn tinh tế và ngòi bút tài hoa của Nguyễn Đình Thi. Dường như nỗi buồn, sự lưu luyến, xao xuyến, nhớ nhung của nhà thơ, vương vấn trong cái chớm lạnh của buổi đầu thu, trong xao xác hơi may, trong khung cảnh thềm nắng lá rơi đầy. Đặt tính từ xao xác trước hơi may là tác giả có ý nhấn mạnh đến nét đáng yêu, đáng nhớ nhất của gió thu và âm thanh tiêu biểu nhất của mùa thu. Nhịp điệu, âm hưởng thơ mang nỗi buồn man mác, hợp với khung cảnh huyền ảo của mùa thu Hà Nội. Nhà thơ đã phác họa nên bức tranh mùa thu Hà Nội với những đường nét mềm mại, màu sắc trong sáng làm xúc động lòng người, để lại ấn tượng khó phai. Đây cũng chính là biểu hiện của tình yêu Hà Nội thiết tha, say đắm và tình yêu ấy khiến cho cảm hứng của thi sĩ thăng hoa.

      Đang hồi tưởng về một mùa thu đã xa của Hà Nội, cảm xúc của tác giả bỗng chuyển hướng sang mùa thu hiện tại bằng một câu thơ ngắn, âm điệu dứt khoát như một lời khẳng định:

Mùa thu nay khác rồi

      Mùa thu nay là mùa thu thứ hai ở chiến khu Việt Bắc (1948) tràn đầy khí thế sau chiến thắng Thu Đông 1947. Ở đoạn thơ đầu, tiết tấu chậm, âm hưởng trầm lắng hợp với dòng hoài niệm, hợp với cảnh thu buồn và tâm trạng bâng khuâng, da diết. Đến đoạn này, những câu thơ được viết theo thể tự do, nhịp điệu sôi nổi, phóng khoáng; cảm xúc rạo rực, phấn khích, rộn rã, tươi vui:

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi 

Gió thổi rừng tre phấp phới 

Trời thu thay áo mới 

Trong biếc nói cười thiết tha.

      Bức tranh mùa thu nay hiện ra với những chi tiết, hình ảnh bình dị, dân dã, khỏe khoắn và tươi sáng. Giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, bao la của núi rừng Việt Bắc, hòa lòng mình vào cuộc kháng chiến thần thánh của toàn dân tộc, tâm trạng của chủ thể trữ tình có sự biến đổi rất rõ. Từ tâm trạng phảng phất buồn khi hoài niệm về mùa thu Hà Nội năm xưa đã chuyển sang tâm trạng hào hứng, sối nổi, tràn ngập niềm vui trước khung cảnh mùa thu ở chiến khu Việt Bắc. “Cái tôi trữ tình” cũng chuyển thành “cái ta” Nhà thơ không chỉ nhân danh cá nhân mà còn nhân danh cộng đồng để nói lên niềm tự hào chính đáng và ý thức làm chủ non sống, đất nước, cảm hứng về mùa thu của Nguyễn Đình Thi gắn liền với cảm hứng về đất nước trong từng thời kì lịch sử, mùa thu đất trời gắn liền với mùa thu cách mạng. Đất nước được nhìn ngắm, suy ngẫm từ một sự kiện lịch sử đáng nhớ: mùa thu 1945 cùng với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

      Niềm vui mới to lớn tràn ngập lòng người, tràn ngập đất trời chiến khu Việt Bắc. Hình ảnh trong đoạn thơ này tươi mát, sống động. Từ ngữ được sử dụng rất chọn lọc nhằm nhấn mạnh cái khác của thu nay. Mùa thu với ngọn gió phóng khoáng thổi ào ào làm cả rừng tre phấp phới như bay như mua trên cái nền trong biếc của trời thu thay áo mới, trong biếc ở con mắt nhìn cảnh vật, giữa tiếng nói cười thiết tha rộn ràng của con người.

      Đây là nét nghệ thuật độc đáo mà Nguyễn Đình Thi đã đem đến cho những bài thơ viết về mùa thu, thực sự thổi một luồng gió mới vào đề tài mùa thu trong thơ ca Việt Nam. Cái buồn, cái lạnh của thu xưa dường như đã lùi xa. Mùa thu nay đẹp đẽ, trong sáng bởi tâm hồn, đôi mắt của thi nhân đầy phấn chấn và tin tưởng. Sự tinh tế trong cảm xúc của tác giả thể hiện ở sự cảm nhận được nét riêng của không gian mùa thu: tiết trời êm ả, ánh nắng vàng dịu, bầu trời dường như xanh cao hơn, không khí như nhẹ hơn và mọi âm thanh cũng trở nên ngân xa, vang vọng. Từ cảm xúc về mùa thu đất nước dẫn đến tình cảm mến yêu tha thiết và lòng tự hào về đất nước, nhà thơ ngắm nhìn cảnh vật với tâm hồn phơi phới lạc quan, yêu đời. Niềm vui tràn ngập lòng người, tràn ngập đất trời.

      Cội nguồn của niềm vui ấy thật to lớn, sâu xa. Đó là do đất nước sau Cách mạng tháng Tám đã về tay nhân dân. Đó là hạnh phúc lớn lao của dân tộc, của đất nước đã dành được chủ quyền thiêng liêng độc lập, tự do. Đoạn thơ với nhịp điệu rộn ràng, hào hứng và những hình ảnh đẹp đẽ, tươi mát đã thể hiện vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ của đất nước thân yêu. Nhà thơ như reo như hát lên niềm hạnh phúc bất tận ấy:

Trời xanh đây là của chúng ta 

Núi rừng đây là của chúng ta 

Những cánh đồng thơm mát 

Những ngả đường bát ngát 

Những dòng sông đỏ nặng phù sa.

      Với nhạc điệu rộn ràng, náo nức, hình ảnh nối tiếp hình ảnh, quấn quýt hòa quyện vào nhau, đoạn thơ tạo nên vẻ đẹp của đất nước Việt Nam sau ngày độc lập. Âm hưởng đoạn thơ mênh mang bởi những âm tiết ngân vang: ta, thơm mát, bát ngát, phù sa… Các dòng thơ liên kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau để làm nổi bật ý thơ.

      Điệp khúc là của chúng ta cứ ngân nga, vang vọng giữa đất trời, sông núi. Tất cả những gì thân yêu, quen thuộc trên đất nước này đều là của chúng ta. Còn gì sung sướng hơn, tự hào hơn bốn tiếng ấy sau hàng trăm năm nô lệ, dân tộc ta phải đổ bao xương máu mới giành được quyền làm chủ. Cũng nguồn cảm hứng say sưa, dạt dào như thế, nhà thơ Tố Hữu đã thốt lên: của ta, trời đất, đêm ngày ; Núi kia, đồi nọ, sống này của ta! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên).

      Cái thế đứng của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ là thế đứng của con người tự do kiêu hãnh ngẩng cao đầu, cảm hứng mở ra, vẽ ra những hình ảnh thân thương của đất nước với chiều rộng, chiều dài và sắc màu của bầu trời, núi rừng, cánh đồng, ngả đường, dòng sông… Trời thu thay áo mới, Những cánh đồng thơm mát, Những ngả đường bát ngát, Những dòng sông đỏ nặng phù sa… càng trở nên bội phần đẹp đẽ vì đã về tay chúng ta.

      Sắc đỏ của phù sa gợi liên tưởng tới những chiến sĩ đã hi sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ non sông. Chữ nặng không chỉ diễn tả lượng phù sa trong nước của dòng sông mà còn đặc tả bề dày của dòng chảy bốn nghìn năm lịch sử. Nước không chỉ đỏ nặng phù sa màu mỡ mà còn cuồn cuộn dòng máu quật cường. Những liên tưởng sâu xa ấy khiến cho cảm xúc thơ trở nên trầm lắng, thiết tha. Ý thơ đi từ những hình ảnh cụ thể, hữu hình, đến sự cảm nhận cái vô hình là truyền thống, là hồn thiêng đất nước. Nhà thơ suy ngẫm về chiều sâu, về bề dày của lịch sử để từ đó đúc kết thành chân lí:

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất 

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất 

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

      Không chỉ những sự vật hữu hình như bầu trời, cánh đồng, núi rừng, dòng sông… mà còn cả những yếu tố vô hình làm nên đất nước. Nước chúng ta – giản đơn ba chữ mà chất chứa tình cảm thiêng liêng pha lẫn tự hào. Câu thơ nước những người chưa bao giò khuất là lời khẳng định như chân lí bất di bất dịch về một thực tế hiển nhiên. Suốt chiều dài lịch sử bốn ngàn năm, trải qua bao phen chống ngoại xâm, có thắng có bại nhưng đất nước này, dân tộc này chưa bao giờ khuất phục trước bạo lực của quân thù. Truyền thống bất khuất ấy truyền từ đời này sang đời khác. Nhà thơ lắng nghe tiếng nói quật cường vọng lên từ lòng đất. Đất, qua tâm hồn nhà thơ và tâm hồn chúng ta, không chỉ xanh tốt những vạt rừng, thơm mát những cánh đồng, bát ngát những ngả đường, đỏ nặng phù sa của những dòng sông mà còn rì rầm tiếng nói đấu tranh bao đời không bao giờ tắt. Câu thơ trở nên trang trọng, trầm lắng khi nói đến tiếng vọng thiêng liêng của ngàn xưa rì rầm trong tiếng đất.

      Tiếng đất là tiếng của lịch sử, là tiếng của hồn thiêng sông núi tự ngày xưa đang vọng nói về hiện tại. Mồ hôi, xương máu của tổ tiên, ông cha thấm vào lòng đất đã bao đời, thành tiếng đất luôn nhắc nhở các thế hệ con cháu hãy giữ lấy giang sơn gấm vóc của tổ tiên. Từ đó, nhà thơ suy nghĩ về đất nước trong chiến tranh giải phóng, trong đau thương căm hờn đứng lên chiến đấu bất khuất anh hùng.

      Có thể nói ít có hình ảnh nào thể hiện nỗi đau thương tang tóc của dân tộc và đất nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lại cô đọng, hàm súc và gây ám ảnh sâu sắc như những hình ảnh trong hai câu thơ:

Ôi những cảnh đồng quê chảy máu 

Dây thép gai đâm nát trời chiều.

      Dấu ấn khốc liệt của chiến tranh bao phủ khắp nơi. Đạn bom quân thù cày nát mặt đất, triệt hạ sự sống. Ánh hoàng hôn đỏ hắt xuống khiến những cánh đồng quê như chảy máu. Hàng rào dây thép gai quanh đồn bốt giặc tua tủa chĩa lên như muốn đâm nát trời chiều vốn tĩnh lặng, bình yên. Cả hai chiều không gian đều in đậm bóng dáng sự tàn phá, chết chóc của chiến tranh. Từng chữ, từng câu thơ oằn nặng bởi cảm xúc đau thương, căm giận.
Các hình ảnh trong đoạn thơ này hoàn toàn tương phản với hình ảnh trong đoạn thơ trên. Những cánh đồng quê chảy máu thay cho những cánh đồng thơm mát. Trời chiều bị dây thép gai đâm nát thay thế cho sắc trời thu trong biếc thanh bình. Cuộc sống êm ả xưa kia giờ không còn nữa. Đâu đâu cũng là cảnh tang tóc, đau thương. Bao nhiêu máu xương đã đổ xuống mảnh đất này.

      Trên cái nền là đất nước đau thương ấy, nhà thơ khắc họa nổi bật hình ảnh và tâm trạng người chiến sĩ:

Những đêm dài hành quân nung nấu 

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

      Nhà thơ cảm nhận sâu sắc những rung động tinh tế trong tâm hồn mỗi người lính ra trận. Đó là tâm trạng cháy bỏng yêu thương nhân dân và nung nấu hờn căm quân cướp nước. Mối căm thù sôi sục trong tim, thôi thúc những đêm dài hành quân không nghỉ. Mối căm thù dồn lên mũi lê, đầu súng nhằm thẳng quân thù. Nhưng chính lúc ấy cũng thấp thoáng hiện lên trong nỗi nhớ đôi mắt của người yêu chờ đợi khiến tâm hồn chiến sĩ ta bồn chồn, xao xuyến.

      Hay nhất trong phần sau của bài thơ có lẽ là khổ thơ này. Phải là người từng trải, có vốn sống phong phú và trái tim dạt dào tình cảm nhân ái thì tác giả mới có cách diễn đạt tự nhiên về sự hài hòa giữa tình cảm riêng chung, giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước của người chiến sĩ.

      Ở đoạn thơ cuối, tác giả dồn hết tâm huyết để tô đậm hình ảnh đất nước từ trong đau thương đã anh dũng đứng lên chiến đấu. Đó là hình tượng cao đẹp về đất nước muôn đời, về sự vươn mình vĩ đại của đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới:

Từ những năm đau thương chiến đấu 

Đã ngời lên nét mặt quê hương 

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu 

Đã bật lên những tiếng căm hờn 

Bát cơm chan đầy nước mắt 

Bay còn giằng khỏi miệng ta 

Thằng giặc Tây thằng chúa đất 

Đứa đè cổ đứa lột da.

      Nỗi đau xót như thấm sâu vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh tiêu biểu tạo nên ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Đặc biệt hình ảnh Bát cơm chan đầy nước mắt, Bay còn giằng khỏi miệng ta nói lên tột cùng tội ác của quân thù và tột cùng sự tủi cực của nhân dân ta trong vòng nô lệ. Nhưng bạo lực của kẻ thù đã không thể bắt chúng ta phải khuất phục:

Xiềng xích chúng bay không khóa được 

Trời đầy chim và đất đầy hoa 

Súng đạn chúng bay không bắn được 

Lòng dân ta yêu nước, thương nhà 

Khói nhà máy cuộn trong sương núi 

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng 

Ôm đất nước những người ảo vải 

Đã đứng lên thành những anh hùng

      Từ thực tế kháng chiến gian nan và hào hùng, Nguyễn Đình Thi đã viết nên những câu thơ khái quát về sự mất mát, hi sinh của đất nước cùng quyết tâm giành lại chủ quyền độc lập tự do của dân tộc ta. cả dân tộc đoàn kết thành một khối thống nhất, trán đẫm mồ hôi và mắt ngời hi vọng, rắn rỏi mạnh mẽ bước tới tương lai:

Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội 

Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh   

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

      Cái hay của đoạn thơ này chính là âm điệu thơ hào hùng, sảng khoái. Tiếng nói trữ tình của nhà thơ mang âm vang tiếng nói của cả dân tộc đang hướng tới tương lai. Nhân dân ta đứng dậy giữ nước không chỉ bằng sức mạnh tình cảm mà còn bằng sức mạnh lí trí, có ánh sáng cách mạng soi dường và niềm tin vào tương lai tươi sáng.

      Kết thúc bài thơ là hình ảnh đất nước từ trong đau thương, căm hận và máu lửa chiến tranh đã hiên ngang đứng dậy, tự khẳng định mình trước lịch sử và nhân loại:

Súng nổ rung trời giận dữ 

Người lên như nước vỡ bờ 

Nước Việt Nam từ máu lừa 

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

      Âm hưởng hào hùng, sảng khoái của đoạn thơ được tạo nên từ thể thơ sáu chữ với tiết tấu nhanh, mạnh, dồn dập cùng với hàng loạt hình ảnh đậm chất anh hùng ca lấy từ thực tế của chiến trường Điện Biên Phủ ác liệt mà nhà thơ đã trực tiếp tham gia và được tận mắt chứng kiến: “Tổ trông thấy các anh – Nguyễn Đình Thi kể – mình mẩy đầy bùn, nhưng khi nhảy lên trên mặt đất, các anh hiện lên chói lòa trong ánh nắng”. Tác giả đã tạo nên hình tượng thơ đẹp đẽ, hào hùng từ hình ảnh rất chân thực: trong máu lửa, bùn lầy, giữa tiếng đại bác rền vang rung trời chuyển đất, chiến sĩ ta từ các chiến hào ào ạt xông lên như nước vỡ bờ. Hình ảnh của họ nổi lên trên nền trời như một tượng đài kì vĩ của chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng.

      Sau: Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, Máu trộn bùn non, Gan không núng, chí không mòn! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu), quân dân ta đã chiến thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chín năm trường kì gian khổ chống thực dân Pháp, mở ra một trang sử mới, khẳng định vị trí và tên tuổi của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

      Đất nước là một bài thơ góp phần làm nên tên tuổi Nguyễn Đình Thi trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ này tiêu biểu cho suy ngẫm sâu sắc của tác giả về đất nước. Với cảm hứng thơ lúc trầm lắng lúc sôi trào, cùng với nhịp thơ biến đổi vô cùng linh hoạt, hình ảnh đất nước cứ ngời lên trong khổ đau, gian nan, vất vả. Nguyễn Đình Thi là nhà thơ của đất nước trong đau thương. Ý tưởng về một đất nước đau thương mà hào hùng, bất khuất không phải chỉ Nguyễn Đình Thi mới có, nhưng do hình tượng trong thơ ông thấm đẫm cảm xúc bỉ tráng, gắn với những ấn tượng sâu sắc nên Đất nước là một tác phẩm xuất sắc, đủ sức vượt qua mọi thử thách của thời gian để sống mãi trong lòng người đọc.

icon-date
Xuất bản : 08/05/2021 - Cập nhật : 08/05/2021