Thế nào là đa dạng sinh học? Đa dạng sinh học là bao gồm nhiều dạng và cá thể của các loài cùng với những biến dị di truyền của thế giới sinh vật, cũng như nhiều dạng của các cấp độ tổ chức sinh giới nhất là dưới dạng hệ sinh thái ở mọi môi trường trái đất, khái niệm này cũng bao gồm cả những mức độ biến đổi trong thế giới tự nhiên mà đơn vị cấu thành là những sinh vật.
Đa dạng sinh học là khái niệm được hiểu khác nhau nếu tiếp cận từ các góc độ khác nhau. Nếu tiếp cận từ quan điểm kết cấu thì đa dạng sinh học bao gồm các thực thể sống quần tụ lại theo nhóm, loài, cộng đồng... Tiếp cận từ góc độ chức năng thì nói đến đa dạng sinh học là nói đến các hệ sinh thái và các quá trình tiến hoá. Dù tiếp cận ở từ góc độ nào thì các định nghĩa về đa dạng sinh học đều thừa nhận mối liên hệ giữa các giống loài, sự phụ thuộc vào nhau giữa chúng trong quá trình tiến hoá và phát triển. Đa dạng sinh học cấu thành nền tảng của cuộc sống ttên ttái đất, cuộc sống của cả con người và các thực thể sống khác.
Việt Nam, là một trong 12 trung tâm đa dạng sinh học của thế giới, có sự phong phú và đa dạng về các nguồn gen quý, hiếm. Với mục tiêu bảo tồn, phát triển bền vững nguồn tài nguyên, phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, thời gian qua Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đa dạng sinh học; lập quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học trên cả nước... Ðến nay, chúng ta đã thành lập được 173 khu bảo tồn, trong đó gồm 33 vườn quốc gia; 66 khu dự trữ thiên nhiên; 18 khu bảo tồn loài và sinh cảnh; 56 khu bảo vệ cảnh quan. Cả nước cũng có 9 khu đất ngập nước được công nhận là khu Ramsar thế giới; 23 tỉnh phê duyệt quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học cấp tỉnh, thành phố...
Theo các kết quả nghiên cứu, Việt Nam nằm ở vị trí chuyển giao của nhiều luồng sinh vật: phía Đông mang các đặc điểm địa sinh học của dãy Hymalaya; phía Nam có các kiểu hệ sinh thái tương tự với các hệ sinh thái biển đảo và đất liền của khu vực Đông Nam Á; dãy Trường Sơn là vùng chuyển tiếp giữa kiểu khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Bên cạnh các dãy núi, Việt Nam còn có 16 hệ thống sông chính, trong đó có hơn 10 hệ thống sông mà lưu vực có diện tích trên 10.000km2 như hệ thống sông Hồng, sông Cửu Long, sông Đồng Nai... Bên cạnh hệ sinh thái rừng thì Việt Nam còn có nhiều kiểu hệ sinh thái khác như trảng cỏ, đất ngập nước nội địa, đồi cát, bãi bồi ven biển, cửa sông, bãi cỏ biển, rạn san hô và vùng biển sâu. Song song đó còn có các hệ sinh thái nhân tạo như đập nước, đất nông nghiệp, đô thị.
Nước ta sở hữu nhiều loại rừng nguyên sinh và ngập mặn phong phú, tuy nhiên dưới những biến đổi xấu về mặt khí hậu thời tiết cũng như áp lực đô thị hóa và gia tăng dân số, nhiều khu rừng đã mất đi sự đa dạng chủng loại và giống nòi, từ đó dẫn đến sự suy giảm mạnh mẽ ở các thời điểm hiện tại và báo động nguy cấp trong tương lai.
Hệ sinh thái biển ở Việt Nam có sức chịu tải cao và khả năng tái tạo là tương đối lớn, tuy vậy sinh thái biển dù có phong phú cũng đang đứng trước nguy cơ bị giảm sút do tranh chấp lãnh thổ và những nguyên nhân khách quan trong biến đổi khí hậu và thiên tai.
Đa dạng sinh học là cơ sở cung cấp thực phẩm, là nền tảng cho sức khỏe của loài người. Đa dạng sinh học giữ vị trí quan trọng trong dinh dưỡng của con người thông qua vai trò trong việc sản xuất thực phẩm toàn cầu; đảm bảo năng suất bền vững của đất và cung cấp nguồn gen cho cây trồng. Đảm bảo được cung cấp đầy đủ các loại thực phẩm bổ dưỡng là yếu tố quyết định cơ bản của sức khỏe con người. Sự đa dạng về chủng loại, giống cũng như nguồn thực phẩm hoang dã và dược liệu là cơ sở cho chế độ ăn uống đa dạng, nguồn dinh dưỡng và sức khỏe tốt. về giá frị kinh tế của đa dạng sinh học: Sự đa dạng sinh học là nền tảng phát triển của các cộng đồng ttong những thời kì trước đây cũng như hiện nay. Sự phụ thuộc của nhiều cộng đồng và đa dạng sinh học có thể nhìn thấy rõ nhất ở tất cả các cộng đồng trong các thời kì phát triển xa xưa cũng như ở các nước nông nghiệp kém phát triển trên giới trong thời đại ngày nay. Các loài thực vật trong nhiều thể kỉ đã cung cấp cho con người những sự che chở khỏi mưa nắng, nhất đối với tất cả cộng đồng sống chưa được khai sáng. Những căn nhà gỗ, những túp lều tranh đều có giá trị đối với con người, bảo vệ họ khỏi những sự bất thường của thời tiết. Những phương tiện đỉ lại của con người cũng bắt đầu từ giá trị của đa dạng sinh học. Bè lau, bè nứa, thuyền độc mộc, xe đẩy, xe kéo đều được làm từ các loại gỗ, nứa khác nhau.
Ngày nay, sự phát triển của các ngành công nghiệp, chăn nuôi đã giảm bớt sự lệ thuộc của con người vào thế giới hoang dã. Tuy nhiên, con người cũng không thể tách khỏi đa dạng sinh học trong quá trình phát triển của mình. Công nghệ chế biến thực phẩm dù hiện đại đến đâu vẫn không thể bắt đầu nếu không có các nguồn nguyên liệu từ đa dạng sinh học. Tại Mỹ - nước có nền công nghiệp phát triển nhất, các nguồn lợi thu từ thế giới hoang dã chiếm 4,5% tổng thu nhập quốc dân ttong những năm cuối của thập kỉ thứ 8 của thế kỉ trước. Ngành công nghiệp cá trên thế giới hàng năm cung cấp cho con người ước chừng 100 triệu tấn thực phẩm. Ở Gana, 75% dân cư tìm kiếm thức ăn từ thế giới hoang dã. Nông nghiệp chiếm 32% thu nhập quốc dân ở các nước thu nhập thấp và khoảng 12% ở các nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Con người buổi đầu không thể tồn tại nếu không tìm được cho mình từ trong sự đa dạng sinh học chất đốt, lương thực, thực phẩm và các loại thuốc chữa bệnh. Ngay cả trong thời đại văn minh hiện nay, con người vẫn không thể thoát ra khỏi sự ràng buộc với đa dạng sinh học. Vai trò của của đa dạng sinh học với tư cách là nhân tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của con người là điều không thể nào phủ nhận.