Khái quát Tác giả - Tác phẩm: Hương khúc bao gồm Giới thiệu tác giả Nguyễn Quang Thiều và hoàn cảnh sáng tác, thể loại, bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, đặc sắc nghệ thuật tác phẩm Hương khúc - SGK Chân trời sáng tạo Văn 7
Hương khúc
Nguyễn Quang Thiều (sinh năm 1957) là một nhà thơ. Ngoài lĩnh vực chính thơ ca tạo nên tên tuổi, ông còn là một nhà văn với các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký và tham gia vào lĩnh vực báo chí. Ông hiện nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á – Phi; Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Ông được coi là người cùng với nhà văn, trung tướng công an Hữu Ước sáng lập nên hai tờ báo là tờ An Ninh Thế giới cuối tháng và Cảnh Sát Toàn Cầu. Bên cạnh đó, ông còn là chủ biên của nhiều tờ báo khác có tiếng tăm trong làng truyền thông đại chúng ở Việt Nam.
Từ những năm 1990, thơ Việt Nam đương đại bắt đầu có sự chuyển đổi lớn về mặt thi pháp và có thể nói, Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ đầu tiên, bằng những nỗ lực vượt bậc và tài năng xuất sắc của mình, đã xác lập một giọng điệu mới trong thơ Việt.
Nguyễn Quang Thiều không chỉ là nhà thơ tiên phong với trào lưu hiện đại mà còn là cây viết văn xuôi giàu cảm xúc. Trong anh không chỉ có con người bay bổng, ưu tư với những phiền muộn thi ca, mà còn có một nhà báo linh hoạt và nhạy bén.
Ngoài giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1993, giải A cho tập thơ Sự mất ngủ của lửa, Nguyễn Quang Thiều còn nhận được hơn 20 giải thưởng văn học khác trong và ngoài nước.
Thơ và truyện ngắn của ông đã được dịch in thành sách và đăng trên rất nhiều báo, tạp chí văn học tại các quốc gia: Hoa Kỳ, Pháp, Austraylia, Ireland, Nhật Bản, Hàn Quốc, Venezuela, Colombia, Na Uy, Thụy Điển, Malaysia, Thailand … và nhiều nước trên thế giới. Ngoài ra ông là tác giả của 400 bài thuộc các thể loại báo chí: tiểu luận, phê bình, bút ký, phóng sự, tản văn, bình luận… với các bút danh: Trực Ngôn, Vương Thảo, Hạnh Nguyên, Hoàng Lê …
Ông cũng tham gia viết kịch bản điện ảnh và sân khấu. Nhiều kịch bản của ông đã được dựng thành phim. Tiểu thuyết Kẻ ám sát cánh đồng được hãng phim truyền hình Việt Nam dựng thành bộ phim Chuyện làng Nhô (phát sóng phổ biến trên VTV trong những năm 1998). Truyện ngắn Mùa hoa cải bên sông của ông cũng được đạo diễn Khải Hưng chuyển thể thành phim Lời nguyền của dòng sông, giành Huy chương Vàng Liên hoan Phim truyền hình quốc tế tại Bỉ năm 1993.
Trích Tôi khóc những cánh đồng rau khúc, in trong Mùi của kí ức, NXB Trẻ, 2017
Tuỳ bút là một thể thuộc loại hình kí, rất gần với bút kí, kí sự mà đôi khi trong tiếng Việt vẫn thường gọi là tạp văn.
- Phần 1 (từ đầu đến “Đang mưa đầy trời đấy”): Giới thiệu về thời điểm rau khúc nở
- Phần 2 (tiếp theo đến “đậm thêm hương rau khúc”): Hồi ức về cách làm món bánh khúc
- Phần 3 (còn lại): Tình cảm của tác giả đối với món bánh khúc.
Cuối tháng Mười Một âm lịch, rau khúc bắt đầu nở nhưng phải sang tháng Giêng, tháng Hai, rau khúc mới nở rộ. Nhân vật “tôi” nhớ về những đêm mưa, bà nói rằng khúc nở trắng đồng. Nhân vật “tôi” nhớ lại cảm giác khi được bà cho ăn bánh khúc. Nhân vật “tôi” nhớ về mùi thơm ngậy của rau khúc đồ chín, mùi của gạo nếp, mùi của nhân đậu xanh, quyện vào mùi hành mỡ. Nhân vật “tôi” nhớ lại rằng bà của nhân vật “tôi” từng tỉ mỉ giã rau khúc, trộn rau khúc với bột nếp rồi nhào thành bánh. Nhân vật “tôi” thường ngồi bên bếp lửa cùng bà đồ bánh, căn bếp là nơi ấm áp, tràn ngập thương nhớ của nhân vật “tôi”…
Văn bản là những dòng hồi ức của tác giả với người bà về rau khúc, về món bánh khúc thơm ngon - một thứ ẩm thực chứa đầy hạnh phúc lạ lùng trong tâm khẩm tác giả.
- Ngôn từ trong sáng, gần gũi
- Lối viết nhẹ nhàng, hấp dẫn
[...] Thưởng thì vào cuối tháng Mười Một âm lịch rau khúc bắt đầu nở lác đác trên đông. Nhưng phải sang tháng Giêng, tháng Hai, rau khi mới nở rõ. Đỏ là khoảng thời gian những làn mưa xuân ấm áp thưởng trẻ vẻ trên cảnh đồng lúc gần sáng. Hỏi còn nhỏ. trong những đêm gần sáng như thẻ, không liệu H do gì mà tôi thưởng thức giác. Bà nội kéo chiếc chăn chiên" nhiều lỗ thủng ủ kín tôi và nói “Mưa âm thể nảy, khủe lại nở trắng đồng”. Những lúc như thể, tối nín thở đỏng tai nghe mưa nhưng chỉ nghe thấy tiếng côn trùng rỉ rả. Và tôi lại nói với bả “Cháu chẳng nghe thấy mưa gì cả”. Bà tôi khẽ khàng “Đang mưa đây trời đây”.
[...]Bà không bao giờ hải rau khúc vào buổi chiều. Rau khúc vào buổi sáng sớm khi sương vẫn còn đọng trên mặt ruộng là lúc rau khúc ủ nhiều hương nhất vì thể mả ngon nhất. Có lẽ vì vậy mà mỗi khi ngắt một ngọn ran khúc nhỏ lên, lấy hai ngón tay vò nhẹ thi mũi thơm ngây của rau khủe dâng lên như mùi thơm của chỗ! bảnh khúc vừa để" chín trong bếp. Mỗi khi đỡ! những chiêu bảnh khúc trong chỗ ra. bả nội lại xếp đâm cái lên đĩa để thắp hương trên bàn thờ. Rồi bà tôi đỡ đăm chiếc bánh khúc nóng hổi cho vào một chiếc đĩa để chị tôi mang vào cuối làng biểu bà ngoại tôi. Chỉ sau khi làm xong hai việc đó, bả mới cho chúng tôi ăn bánh khúc. Tôi nâng chiếc bánh khủe lên như mảng một bảy vật. Mũi thơm ngây của rau khúc đỏ chín. mũi của gạo TIẾP, mũi của nhân đạn xanh: quyện với mùi hành mỡ toả ra và làm nên một thử âm lực chứa đầy hạnh phúc lạ lùng trong tâm khánh tôi. Không phải hạnh phúc của một kẻ đói khát được ăn. Một thứ hạnh phúc của ẩm thực nhưng thiêng liêng và da diết mơ nhỏ.
Mỗi lần hái được rau khúc vẻ, bà tôi lấy nước mưa trong bê rửa sạch rau khúc và để cho thật ráo nước mới cho vào cối giã. Bả tôi giã rau khủe cho đến khi nhuyễn và dẻo như người ta giã giò. Sau đó bà tôi mới trên rau khúc đã giã với bột nếp và nhão cho thật nhuyễn. Mỗi khi bà tôi nhào bột bánh xong. tôi cũng cúi rạp người xuống ghẻ sát mũi vào cối bột bảnh và hít thật sâu. Cho đủ vẫn chỉ là một SONE những hương vị bánh khúc đã đãng lên lảm tối ứa đầy nước miếng. Những lúc như thể, tôi lại giục bà đồ bánh khúc. Nhưng bà tôi không bao giờ đồ bảnh ngay. Bà tôi cứ để côi bột đã nhào kỹ chừng hơn một tiếng mới bắt đầu năm bảnh. Ngày xưa. chả mấy khi có thịt làm nhân bánh nhh bây giờ. Bà tôi chỉ dùng một ít nước mỡ trộn với đậu xanh mà quê tôi gọi là đậu tắm được thôi! chín và giã nhuyễn cùng với hành lá làm nhân. Thí thoảng" mua được máy lạng mỡ phản” thì bả tôi mới thải một ít để làm nhân bánh. Những riêng mỡ thải hạt dẻ béo ngậy đến mẽ người. Khi ăn một chiếc bánh khúc như thê, tỏi cứ nhai mãi mà không muốn nuốt. Cải béo của mỡ lợn, cải búi của đậu vã vị ngọt ngào của bột nếp và hương rau khúc làm nên một món ăn dân dã ngon lạ thưởng. Khú đồ bảnh, bà tôi con phủ một lớp rau khúc xin mặt chõ bảng đề giữ hơi và làm cho chỗ bánh đâm themen hương rau khúc.
Tôi thưởng ngôi bên bếp lửa củng bà đo bảnh. Căn bếp là nơi còn ấm áp và ngập tràn thương nhớ của tôi [...] Có lần, khi bà tôi đưa cho tôi chiếc bánh khúc nóng hổi vừa đỡ từ chõ ra, tôi đã đánh rơi chiếc bánh xuống nên bếp tro°. Tôi vội cầm lên và cứ thể ăn cả chiếc bánh của tro bếp. Tôi không thể nào làm sạch tro từ chiếc bánh. Nhưng có lễ là tôi không thể não bỏ đi cho đủ là một hạt xôi nếp đẹp như một hạt ngọc và ngậy thơm làm vỏ đinh trên chiếc bảnh được.
(Trích Tôi khóc những cánh đồng rau khúc, in trong Mùi của ký ức, NXB Trẻ, 2017)
Câu hỏi 1: Tình cảm của tác giả dành cho chiếc bánh khúc tuổi thơ là tình cảm như thế nào? Những tình cảm ấy trong đoạn trích được thể hiện bằng cách nào?
Lời giải:
- Tình cảm của tác giả dành cho chiếc bánh khúc tuổi thơ là tình cảm: yêu thương, trân quý, nâng niu chiếc bánh ấy như nâng niu tất cả những gì đẹp nhất của tuổi thơ và đặc biệt trong đó còn có những kí ức rất đẹp và ấm áp về bà.
- Các chi tiết thể hiện tình cảm ấy:
+ Đoạn trích: “Mùi thơm ngậy của rau khúc đồ chín, mùi của gạo nếp, nùi của nhân đậu xanh quyện với mùi hành mỡ tỏa ra và làm nên một thứ ẩm thực chứa đầy hạnh phúc lạ lùng trong tâm khảm tôi; một thứ hạnh phúc của ẩm thực nhưng thiêng liêng và da diết mơ hồ; Cho dù vẫn chỉ là bột sống nhưng hương vị bánh khúc đã dâng lên làm tôi ứa đầy nước miếng; Những miếng mỡ thái hạt lựu béo ngậy đến mê người; Cái béo của mỡ lợn, cái bùi của đậu và vị ngọt ngào của bột nếp và hương rau khúc làm nên một món ăn dân dã ngon lạ thường,...
+ Cách miêu tả tỉ mỉ, chi tiết từng công đoạn làm bánh; cách lựa chọn từ ngữ miêu tả chiếc bánh, đặc biệt là những tính từ cực tả về tính chất như: thơm ngậy, béo ngậy, ngọt ngào, dân dã, nóng hổi,...
+ Những biện pháp tu từ như: Tôi nâng chiếc bánh khúc lên như nâng một báu vật, một hạt xôi nếp đẹp như một hạt ngọc,…
Câu hỏi 2: Qua cách kể và miêu tả của tác giả, em cảm nhận sức hấp dẫn của bánh khúc được tạo nên từ đâu?
Lời giải:
Qua cách kể và miêu tả của tác giả, em cảm nhận sức hấp dẫn của bánh khúc được tạo nên từ:
+ Những nguyên liệu làm ra bánh khúc: Rau khúc được hái từ sáng sớm, gạo nếp, nhân đậu xanh, hành, mỡ.
+ Công đoạn làm bánh: cẩn thận và tỉ mẩn : Hái rau khúc vào sáng sớm, lấy nước mưa trong bể rửa sạch, để ráo nước, cho vào cối giã, giã đến khi nhuyễn và dẻo, sau đó nhào bột, nặn bánh.
+ Từ vẻ đẹp của sản vật quê hương, từ cách làm bánh tỉ mỉ đong đầy yêu thương của bà, từ sự háo hức trông ngóng của một đứa trẻ chờ đợi món quà tuổi thơ…
Câu hỏi 3: Văn bản trên gợi cho em suy nghĩ gì về nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của dân tộc?
Lời giải:
Văn bản trên gợi cho em suy nghĩ về nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của dân tộc là:
+ Nét đẹp văn hóa ẩm thực của đất nước ta vô cùng phong phú và đa dạng.
+ Nét đẹp ấy được làm nên từ những điều giản dị, gần gũi, thân thuộc nhất.
=> Đó là những món ăn được chế biến từ sản vật quê hương, chứa đựng sự tinh tế của cách kết hợp nguyên liệu, gia vị cùng dấu ấn đẹp đẽ của kí ức, tình yêu tha thiết dành cho quê hương, gia đình…
>>> Xem trọn bộ: Tác giả - Tác phẩm Văn 7 Chân trời sáng tạo
-----------------------------
Trên đây Top lời giải đã cùng các bạn Khái quát về Tác giả - Tác phẩm: Hương khúc trong bộ SGK Chân trời sáng tạo theo chương trình sách mới. Chúng tôi hi vọng các bạn đã có kiến thức hữu ích khi đọc bài viết này. Top lời giải đã có đầy đủ các bài giới thiệu về tác giả tác phẩm các bộ sách mới Cánh Diều, Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức. Mời các bạn hãy click ngay vào trang chủ Top lời giải để tham khảo và chuẩn bị bài cho năm học mới nhé. Chúc các bạn học tốt!