logo

Sơ đồ tư duy Cô bé bán diêm

Tóm tắt, hệ thống kiến thức bằng Sơ đồ tư duy Cô bé bán diêm ngắn gọn, dễ hiểu. Hướng dẫn cách vẽ Sơ đồ tư duy Cô bé bán diêm cực hay, đầy đủ.


1. Tìm hiểu về tác phẩm Cô bé bán diêm

1. Tác giả

- An-đéc-xen (1808- 1875), là nhà văn Đan Mạch nổi tiếng với loại truyện kể cho trẻ em.

- Truyện của ông nhẹ nhàng, trong trẻo, toát lên lòng yêu thương con người, nhất là người nghèo khổ.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ:

- Văn bản được viết vào năm 1845, khi tên tuổi của tác giả lừng danh thế giới với trên 20 năm cầm bút.

- Văn bản “Cô bé bán diêm” trích gần hết truyện ngắn “Cô bé bán diêm”.

b. Bố cục: 3 phần

- Phần 1: Từ đầu → cứng đờ ra: Hình ảnh của cô bé bán diêm trong đêm giao thừa

- Phần 2: Tiếp theo → thượng đế : Các lần quẹt diêm và mộng tưởng của cô bé

- Phần 3: Còn lại: Cái chết thương tâm của cô bé

c. Thể loại: Truyện ngắn.

d. PTBĐ: Tự sự, miêu tả, biểu cảm.

e. Giá trị nội dung:

- Qua câu chuyện nhà văn đã đưa đến chúng ta một thông điệp ý nghĩa: Lòng thương cảm trước số phận của trẻ thơ bất hạnh, hãy phấn đấu vì một tương lai cho tuổi thơ tốt đẹp tràn đầy hạnh phúc.

f. Giá trị nghệ thuật:

- Kể chuyện hấp dẫn chân thực

- Diễn biến tâm lí nhân vật sâu sắc

- Đan xem giữa mộng ảo và thực tại, biện pháp tương phản tạo điểm nhấn về một số phận nhân vật


2. Sơ đồ tư duy Cô bé bán diêm

Sơ đồ tư duy Cô bé bán diêm

3. Một số bài văn mẫu phân tích tác phẩm cô bé bán diêm


Phân tích Cô bé bán diêm - Mẫu 1

      An-đéc-xen là nhà văn người Đan Mạch nổi tiếng với loại truyện kể cho trẻ em. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông chính là truyện Cô bé bán diêm.

      Nhân vật chính trong truyện là một cô bé bán diêm. Hoàn cảnh của cô bé rất bất hạnh. Mẹ mất, bà nội cũng vừa mới qua đời. Cô bé phải sống với người bố và bị bắt đi bán diêm để kiếm tiền trong một đêm giao thừa lạnh lẽo. Mọi người đi lại trên đường đều vội vã, không ai để ý đến một cô bé đang ngồi nép vào một góc tường. Xung quanh, cửa sổ của các nhà đều sáng rực, trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Cô bé đang thu đôi chân cho đỡ lạnh nhưng càng lúc càng rét buốt hơn. Đôi bàn tay cứng đờ ra vì lạnh giá. Sự nghèo khổ thiếu thốn của cô bé bán diêm ở đây không chỉ về vật chất mà còn là về tinh thần, thiếu đi tình yêu được bao bọc của những người thân trong gia đình.

      Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Trong lần quẹt diêm thứ nhất, cô bé ước có lò sưởi. Đó là mong muốn được sự ấm áp. Đến lần thứ hai, cô bé ước một căn phòng có bàn ăn, trên bàn có ngỗng quay - mong muốn được no bụng. Tiếp đến lần thứ ba là mong muốn có cây thông Noel - mong muốn được đón giao thừa như mọi người. Đến lần thứ tư, cô bé mong ước được gặp lại bà, đó là mong muốn được che chở, yêu thương. Cuối cùng cô bé bán còn lại - để gặp lại bà và đi theo bà đến nơi hạnh phúc. Những mong muốn của cô bé là hoàn toàn chính đáng.
Đến cuối cùng, cô bé bán diêm phải chịu một cái chết thương tâm ở một xó tường lạnh lẽo. Cái chết của cô bé bán diêm đã tố cáo một xã hội với những con người vô cảm, lạnh lùng. Nhưng hình ảnh cô bé khi chết đã được nhà văn miêu tả có đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười nhưng em đã chết cóng. Nhà văn An-đéc-xen đã xây dựng hình ảnh cô bé bán diêm khi chết nhưng vẫn mỉm cười - nụ cười khi được đoàn tụ với bà được tác giả tưởng tượng nhằm giảm bớt nỗi đau cho câu chuyện. Cái kết này đã phản ánh được ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc của con người.

      Như vậy, truyện “Cô bé bán diêm” đã thể hiện lòng thương cảm đối với những số phận bất hạnh của cô bé bán diêm. Đồng thời đó cũng là lời tố cáo xã hội đương thời khi con người trở nên lạnh lùng, vô cảm.


Phân tích Cô bé bán diêm - Mẫu 2

      Truyện ngắn Cô bé bán diêm của nhà văn An-đéc-xen đã để lại những dư âm, ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Không chỉ vậy đó còn là niềm cảm thương vô hạn cho số phận bất hạnh, đầy bi thương của nhà văn với cô bé bán diêm.

      Hoàn cảnh của cô bé vô cùng thương cảm, ngay từ những lời đầu tiên giới thiệu về hoàn cảnh của cô bé đã khiến người đọc phải rơi nước mắt: bà và mẹ những người yêu thương em nhất đều đã qua đời, em sống chui rúc với bố trong một căn gác tối tăm, chật chội. Người bố có lẽ vì cuộc sống nghèo túng, khó khăn nên đâm ra khó tính, đối xử tệ bạc với em: hay mắng nhiếc, chửi rủa em.

      Trong đêm đông giá rét em phải mang những phong diêm đi bán để kiếm sống nuôi bản thân. Mặc dù có nhà song em không dám về vì nếu về mà không mang được đồng xu nào tất sẽ bị cha em mắng chửi. Người cha vô lương tâm, lời lẽ hành động thiếu tình thương đã khiến cô bé bất hạnh phải ở bên ngoài trong đêm đông giá lạnh, trong gió và mưa tuyết mỗi lúc một nhiều.

      Xót thương biết bao trong ngày cuối cùng của năm ai ai cũng được quay quần bên gia đình còn cô bé thì đầu trần, chân đất lang thang ngoài trời đông giá rét, tuyết phủ trắng xóa. Xung quanh em đường phố, nhà cửa đã lên đèn, không gian thật ấm cúng, hạnh phúc, mùi ngỗng sực nức khắp nơi, còn em đã đi cả ngày mà không bán được bao diêm nào. Những hình ảnh tương phản không chỉ làm nổi bật thiếu thốn, khó khăn về vật chất của em mà còn nói đến những mất mát, thiếu thốn về mặt tinh thần.

      Trong cái giá rét của mùa đông, cô bé liều mình quẹt từng que diêm để sưởi ấm cơ thể. Hình ảnh ngọn lửa diêm mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết ngọn lửa diêm xua tan cái lạnh lẽo, tăm tối để em bé có thể quên đi những bất hạnh, cay đắng của cuộc đời.

      Ngọn lửa diêm đã thắp sáng những mơ ước đẹp đẽ, những khao khát mãnh liệt, đem đến thế giới mộng tưởng với niềm vui, hạnh phúc. Đó còn là ngọn lửa của mơ ước về cuộc sống gia đình hạnh phúc, được sống trong tình yêu thương của cha mẹ, ông bà. Hình ảnh ngọn lửa diêm như con thuyền đầy tinh thần nhân văn của tác giả, thể hiện sự cảm thông, trân trọng những ước mơ giản dị, diệu kì của trẻ nhỏ.

      Mỗi lần quẹt diêm, cô bé tội nghiệp lại được sống trong giây phút hạnh phúc, chìm đắm trong thế giới cổ tích, thoát khỏi thực tại tăm tối. Lần quẹt diêm thứ nhất, em thấy lò sưởi, vì trong đêm đông giá lạnh em cần được sưởi ấm. Khi que diêm vụt tắt, lò sưởi biến mất, nỗi sợ hãi mơ hồ lại xâm chiếm em “đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng”. Em lại lấy can đảm quẹt diêm lần thứ 2, lần này em thấy một bàn ăn thịnh soạn,… sự tưởng tượng của em thật hài hước, cho thấy mơ ước lớn nhất lúc này của em là được ăn no.

      Trong đêm giao thừa gia đình nào cũng quây quần bên mâm cơm, còn em lại đói lả đi trong cái giá lạnh. Chi tiết gây xúc động sâu sắc đến người đọc, nó gợi lên những ám ảnh day dứt khôn nguôi. Lần thứ ba, trong không khí đêm giáng sinh, em thấy hình ảnh của cây thông. Đó chính là biểu tượng của mái ấm gia đình hạnh phúc, là những ước mơ trong sáng của tuổi thơ.

      Lần thứ 4, giữa cái đói rét và cô độc, em khao khát có tình yêu thương và chỉ có bà là người yêu thương em nhất. Trong giây phút đó bà hiện lên thật ấm áp, đẹp đẽ. Cô bé khẩn thiết van xin bà cho đi cùng, bởi cô bé hiểu khi ngọn lửa diêm tắt đi bà cũng biến mất. Ước nguyện của cô bé thật đáng thương, cô bé muốn được che chở, được yêu thương biết nhường nào.

      Lần cuối cùng em quẹt hết số diêm còn lại để nhìn thấy bà và thật kì lạ ước nguyện cuối cùng của em đã trở thành hiện thực. Em không còn phải đối mặt với đòn roi, những lời mắng nhiếc, sự đói rét, nỗi buồn nữa, em đã được đến một thế giới khác, thế giới có bà ở bên. Qua những lần mộng tưởng của cô bé ta thấy cô bé là người có tâm hồn trong sáng, ngây thơ.

      Trong đói rét em không hề oán trách một ai vì đã thờ ơ trước cảnh ngộ của mình. Tâm hồn em thật trong sáng và nhân hậu biết chừng nào. Đó là một cô bé giàu mơ ước, vượt lên hoàn cảnh thực tại đói rét, cô đơn. Những mơ ước ấy giản dị mà cũng thật lãng mạn, diệu kì.

icon-date
Xuất bản : 07/12/2021 - Cập nhật : 21/06/2022