logo

Quan niệm về chí làm trai trong Tỏ lòng?

Câu hỏi: Quan niệm về chí làm trai trong Tỏ lòng?

Lời giải:

Quan niệm về chí làm trai trong tỏ lòng:

- Nợ công danh: Theo quan niệm nhà Nho, đây là món nợ lớn mà một trang nam nhi khi sinh ra đã phải mang trong mình.

+ Nó gồm 2 phương diện: Lập công (để lại chiến công, sự nghiệp), lập danh (để lại danh thơm cho hậu thế). Kẻ làm trai phải làm xong hai nhiệm vụ này mới được coi là hoàn trả món nợ.

+ Liên hệ với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ. Họ đều là những người trăn trở về món nợ công danh.

- Phạm Ngũ Lão quan niệm: Thân nam nhi mà không lập được công danh sự nghiệp thì “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.

+ Thẹn: Tự cảm thấy mình chưa bằng người khác, cảm giác thua kém, xấu hổ

+ Vũ Hầu: Tức Khổng Minh là tấm gương về tinh thần tận tâm tận lực báo đáp chủ tướng. Hết lòng trả món nợ công danh đến hơi thở cuối cùng, để lại sự nghiệp vẻ vang và tiếng thơm cho hậu thế.

+ Phạm Ngũ Lão: Con người từ thuở hàn vi vì lo việc nước quên sự nguy hiểm của mình, hết lòng phục vụ nhà Trần, được phong tới chức Điện Súy, tước Nội Hầu. Vậy mà ông vẫn cảm thấy hổ thẹn.

→ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão hết sức cao cả của một nhân cách lớn. Thể hiện khát khao, hoài bão hướng về phía trước để thực hiện lí tưởng.

→ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão đánh thức ý chí làm trai, chí hướng lập công cho các trang nam tử đời Trần.

Cùng Top lời giải phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ “Tỏ Lòng” nhé!

I. Dàn ý Phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ “Tỏ Lòng”

Phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ “Tỏ Lòng” của Phạm Ngũ Lão

1. Mở bài:

Phạm Ngũ Lão là anh hùng xuất chúng của dân tộc, có công lớn trong công cuộc chống xâm lược Mông – Nguyên. Bài thơ Thuật hoài là một trong những tác phẩm ít ỏi còn sót lại của vị dũng tướng. Với lời thơ ngắn gọn, đạt đến độ súc tích cao, bài thơ khắc họa được vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lý tưởng, có nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại”

2. Thân bài:

- Vẻ đẹp chí nam nhi qua vóc dáng hùng dũng, sánh ngang tầm vũ trụ:

+ Hình ảnh tráng sĩ: hiện lên qua tư thế “ cầm ngang ngọn giáo” (hoành sóc) giữ non sông. Đó là tư thế hiên ngang với vẻ đẹp kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ.

+ Hình ảnh “ba quân” hiện lên với sức mạnh của đội quân đang sôi sục khí thế quyết chiến thắng.

+ Hình ảnh tráng sĩ lồng trong hình ảnh “ba quân” mang ý nghĩa khái quát, gợi ra hào khí dân tộc thời Trần – “hào khí Đông A”

- Vẻ đẹp chí nam nhi khát vọng công danh, lẽ sống lớn của người anh hùng:

+ Khát vọng lập công danh để thoả “chí nam nhi”, cũng là khát vọng được đem tài trí “tận trung báo quốc” – thể hiện lẽ sống lớn của con người thời đại Đông A.

+ Nghệ thuật : Hình ảnh thơ hoành tráng, thích hợp với việc tái hiện khí thế hào hùng của thời đại và tầm vóc, chí hướng của người anh hùng. Ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, có sự dồn nén cao độ về cảm xúc

3. Kết bài:

Bài thơ thể hiện vẻ đẹp chí nam nhi, lí tưởng cao cả của vị danh tướng Phạm Ngũ Lão, khắc ghi dấu ấn đáng tự hào về một thời kì oanh liệt, hào hùng của lịch sử dân tộc.

II. Văn mẫu Phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ “Tỏ Lòng”

Phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ “Tỏ Lòng” - Mẫu số 1

Trong kho tàng văn học thời Trần, "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là một bài thơ tiêu biểu thể hiện rõ tinh thần của thời đại nhà Trần với "Hào khí Đông A". Được sáng tác theo khuynh hướng yêu nước - sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc, tác phẩm đã khắc họa thành công bức chân dung người anh hùng mang tầm vóc vũ trụ với vẻ đẹp lớn lao, kì vĩ toát lên từ lí tưởng đến tầm vóc, tư thế và hành động.

Trước hết, bài thơ đã khắc họa tư thế hiên ngang và tầm vóc kì vĩ của người anh hùng Phạm Ngũ Lão và vẻ đẹp của thời đại Đông A:

"Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu"

Dịch thơ:

"Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân hùng mạnh nuốt trôi trâu"

Với ý nghĩa "cầm ngang ngọn giáo", từ ngữ "hoành sóc" đã tái hiện thành công hình ảnh người anh hùng trấn giữ đất nước trong tư thế hiên ngang, mang tầm vóc vũ trụ và hào khí dường như bao trùm đất trời. Trong bản dịch của tác phẩm "Chinh phụ ngâm" cũng miêu tả hình ảnh người chinh phu với hành động "Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo". Với hào khí đó, ắt hẳn người anh hùng đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của thời đại nói riêng và của dân tộc nói chung: "Ba quân hùng mạnh nuốt trôi trâu". Câu thơ đã tái hiện hình ảnh cụ thể của quân đội nhà Trần, đồng thời khái quát sức mạnh của dân tộc. Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi nghệ thuật so sánh "Tam quân tì hổ" (Ba quân dũng mãnh như hổ báo) với khí thế "nuốt trôi trâu", diễn đạt thành công tinh thần quyết chiến quyết thắng của "Hào khí Đông A".

Không chỉ khắc họa vẻ đẹp về tầm vóc, tư thế, hành động; bài thơ còn vẽ nên bức chân dung về ý chí của người anh hùng:

"Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu"

"Công danh" vốn là một phạm trù quen thuộc khi người anh hùng bày tỏ ý chí của mình mang màu sắc của tinh thần, tư tưởng Nho giáo với ý nghĩa: để lại sự nghiệp và để lại tiếng thơm. Xuyên suốt thời đại phong kiến, đây là quan niệm lí tưởng của các bậc anh hùng. Tác giả Nguyễn Công Trứ cũng đã từng dõng dạc tuyên bố rằng:

"Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông"

Như vậy, chúng ta có thể thấy được lí tưởng mà tác giả hướng đến hoàn toàn mang ý nghĩa tích cực, thể hiện rõ ý chí quyết tâm đối với sự nghiệp cứu nước, cứu đời. Mặc dù là một vị tướng có nhiều công lao to lớn đối với công cuộc đánh đuổi ngoại xâm và bảo vệ đất nước nhưng Phạm Ngũ Lão vẫn cho rằng mình vẫn còn "vương nợ" công danh. Bởi vậy, ông mang trong mình nỗi thẹn khi "tai nghe chuyện Vũ hầu". Đó là nỗi "thẹn" khi chưa có tài thao lược lớn như Gia Cát Lượng. Qua đó, chúng ta có thể thấy được nhân cách cao đẹp của tác giả.

Quan niệm về chí làm trai trong Tỏ lòng?

Phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ “Tỏ Lòng” - Mẫu số 2

Mỗi sáng tác văn học luôn in đậm dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ. Nhưng nói như vậy không có nghĩa trong nó không tồn tại dấu ấn thời đại, không phản ánh hình ảnh con người thời đại đó. Bàn về bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn nhận định: Nói ngắn gọn, khái quát, bài “Thuật hoài” thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại.

Có thể nói, trong các triều đại phong kiến Việt Nam, nhà Trần là triều đại để lại nhiều dấu ấn lịch sử đáng ghi nhớ nhất. Ba lần quân Nguyên Mông – đế quốc phong kiến lớn nhất thời bấy giờ cất quân xâm lược nước ta là ba lần chúng thất bại thảm hại trước sức mạnh của quan quân nhà Trần. Chính thời đại ấy hun đúc nên những con người vĩ đại và trở lại, con người lại làm vẻ vang cho thời đại sản sinh ra mình. Trong lịch sử Việt Nam trước đó, có lẽ chưa khi nào người ta bắt gặp hình tượng con người kì vĩ trong văn chương thế này:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.

(Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,

Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu.)

Ngay khi mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã gieo vào lòng người đọc ấn tượng về con người phi thường, con người khổng lồ. Sự phi thường của con người được thể hiện ngay trong hành động hoành sóc. Con người thời Trần không chấp nhận hành động tầm thường (cẩm giáo, múa giáo) mà phải là cầm ngang ngọn giáo. Phải hoành sóc thì mới oai phong, lẫm liệt, thì mới dũng mãnh, hiên ngang. Phải hoành sóc thì mới đầy thách thức, ngạo nghễ. Phải hoành sóc thì mới thể hiện rõ tinh thần chủ động trấn thủ. Và có lẽ chiến trường, trận địa chưa phải là không gian thể hiện được hết tầm vóc to lớn của con người thời đại này nên Phạm Ngũ Lão lựa chọn cả giang sơn rộng lớn. Tương xứng với không gian cao rộng bao la là thời gian trường cửu kháp kỉ thu. Chiếc giáo của con người thời đại như đo được cả bề rộng, chiều dài vũ trụ. Theo đó, chủ thể của hành động, chủ nhân của cây trường giáo cũng vì thế mà trở nên kì vĩ khôn cùng. Trong câu thơ đầu này, hình tượng con người được khắc họa ở khí phách hiên ngang. Khí phách đó được nhân lên gấp bội khi Phạm Ngũ Lão nói về đội quân hùng mạnh vô song của mình ở câu thơ thứ hai. Chỉ bằng phép so sánh (ì hổ) và nghệ thuật ẩn dụ (Khí thôn ngưu), nhà thơ đã lột tả một cách chân xác, hùng tráng về khí thế cường địch, vũ bão của quân đội nhà Trần. Tướng quân họ Phạm có phần phóng đại khi đem sức mạnh các loài mãnh thú để nói về sức mạnh con người thời đại mình. Nhưng tất cả có thể lí giải từ niềm tin, niềm tự hào về đội quân của ông.

Con người thời đại Đông A không chỉ đẹp trong tư thế, khí phách mà còn đẹp hơn nữa trong tư tưởng, trong nhân cách:

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

(Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh,

Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.)

Có thể coi hai câu trên là lời tự bạch của nhà thơ. Khi viết những dòng này, Phạm Ngũ Lão đã là một tướng quân, công danh có phần hiển hách, so với đời có lẽ ông không phải cúi đầu hổ thẹn. Thế nhưng ông vẫn tự nhận mình chưa trọn nợ công danh. Trong tâm niệm của ông, có lẽ hai chữ công danh kia, có lẽ chí làm trai kia phải vẹn đầy hơn nữa. Không thoả mãn với những gì mình đã đạt được là lí do khiến Phạm Ngũ Lão “thẹn” với Gia Cát Khổng Minh. Tự sánh mình với bậc kì tài trong lịch sử Trung Hoa để nhận ra những điều mình chưa làm được – điều đó thể hiện sự dũng cảm, thể hiện nhân cách cao đẹp của con người. Cái “thẹn” của Phạm Ngũ Lão là cái thẹn làm nên nhân cách. Phạm Ngũ Lão cúi mình trước bậc kì tài thời trước cũng như Cao Bá Quát sau này chỉ cúi mình trước vẻ thanh cao của hoa mai (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa). Những cái cúi đầu đó không hạ thấp địa vị, nhân cách con người mà càng tôn cao, tôn thêm nhân cách, vẻ đẹp tỉnh thần ở họ. Ta còn có thể đọc trong lời thơ một niềm khát khao mãnh liệt – khát khao được lập những chiến công hiển hách cho non sông, cho dân tộc. Hoài bão ấy, ý chí ấy, lí tưởng ấy góp phần khắc hoạ vẻ đẹp tuyệt vời của hình tượng con người thời đại nhà Trần.

Mỗi con người, theo đúng nghĩa của nó, sinh ra, lớn lên trong thời đại của mình đều mong muốn góp phần tô điểm, làm rạng ngời cho thời đại đó. Theo đó, chân dung một thời đại sẽ được phản ánh qua hình tượng con người trung tâm. Đọc Thuật Hoài , chúng ta có thể hình dung thời đại nhà Trần là thời đại khổng lồ, thời đại hào hùng, âm vang hào khí dân tộc. Hào khí đó không chỉ nổi lên từ những tiếng đồng thanh “Đánh! Đánh!” của các bô lão trong hội nghị Diên Hồng, không chỉ được phất lên từ lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch báo hoàng ân” của người anh hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản, không chỉ được khắc bằng hai chữ trên cánh tay mỗi tráng sĩ… mà còn được thể hiện đậm nét trong lời thơ Phạm Ngũ Lão. Hình ảnh con người trầm tư suy nghĩ về ý chí, lí tưởng, hoài bão của mình là sự khúc xạ tuyệt đẹp của chân dung thời đại.

Thuật hoài ra đời đã hàng ngàn năm nay nhưng dấu ấn về con người, và thời đại Đông A lại hết sức gần gũi, đẹp đẽ trong mỗi chúng ta. Mỗi ngày mỗi người sẽ bận rộn hơn với những công việc của mình, thật khó để có thể lật lại những trang sử cũ. Nhưng chỉ cần đọc bài thơ hai mươi tám chữ của Phạm Ngũ Lão, chúng ta sẽ đã dàng cảm nhận được quá khứ hào hùng của cha ông.

Phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ “Tỏ Lòng” - Mẫu số 3

“Trai thời loạn”, thành ngữ dân gian ấy không biết có từ bao giờ. Có lẽ có khi từ lúc “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” (Nguyễn Khoa Điềm). Đó là ý thức về đóng góp của mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc. Và thời Trần, thời đại anh hùng sản sinh ra những anh hùng. Thời đại đã hun đúc nên những nhân vật kì vĩ. Danh tướng Phạm Ngũ Lão là sản phẩm của hào khí Đông A. Ông vốn xuất thân từ tầng lớp bình dân. Tài năng cùng với lý tưởng yêu nước sáng ngời của ông đã tạo nên một con người Việt Nam ưu tú trong lịch sử: Phạm Ngũ Lão văn võ toàn tài: Tài võ ông đem hiến dâng cho sự nghiệp cứu nước. Tài văn ông dùng để làm thơ bày tỏ nỗi lòng của mình với bè bạn, với hậu thế và trước hết là tự nói với mình về ý thức trách nhiệm thiêng liêng, nghĩa vụ cao cả với Tổ quốc yêu quý. “Thuật hoài” chính là tiếng nói của một trái tim yêu nước thiết tha. Qua tiếng nói ấy, người đời được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trang nam nhi yêu nước thời Trần

Phạm Ngũ Lão đã chọn thể thơ tứ tuyệt Đường luật để bày tỏ khát vọng và hoài bão của mình. Đây là thể thơ rất hàm súc, rất ít lời mà có sức gợi lớn, ý tứ sâu xa, phù hợp với cách nói chắc nịch của một vị tướng vẫy vùng nơi trận mạc. Nhân vật trữ tình bày tỏ lòng mình qua hình tượng kỳ vĩ.

Câu khai của bài thơ tứ tuyệt đã mở ra hình ảnh một đấng nam nhi với tư thế hiên ngang, mang tầm vóc vũ trụ, hành động kỳ vĩ

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Người tráng sĩ không múa giáo mà cầm ngang ngọn giáo. Hai từ múa giáo trong lời dịch thơ chưa thể hiện được hai từ hoành sóc của câu thơ nguyên tác. Múa giáo có gì đó pha chút phô trương, biểu diễn hoặc nếu không dễ làm ta liên tưởng đến một trình độ thuần thục của nghề cung kiếm trong thao tác thực hành. Và như vậy nó làm mất đi cái cường độ nội sinh, nội lục. Người bản lĩnh cao không bao giờ tỏ ra trong cái hình thức bên ngoài như thế. Ở đây người tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc). Trong câu thơ nguyên tác, tác giả dựng lên hình ảnh người tráng sĩ ở một tư thế tĩnh chứ không động. Tư thế ấy như dồn nén sức mạnh để để bùng nổ.Tầm nhìn của tráng sĩ bao quát cả giang sơn. “Giang sơn” là từ chỉ đất nước. Nó vừa diễn tả không gian mang sắc thái vũ trụ, vừa để diễn tả một ý niệm cụ thể là đất nước. Khi nói đến giang sơn thường có một sự liên tưởng đến bộ ba khái niệm”thiên, địa, nhân” (trời, đất, người), tức là thuyết tam tài, diễn tả ý niệm về tầm quan trọng của con người trong vũ trụ. Con người sánh ngang với trời đất, có trách nhiệm to lớn đối với thế giới. Vì vậy ở đây người tráng sĩ đã thể hiện tư thế và tầm nhìn của người chủ động canh giữ giang sơn quý báu của mình, sẵn sàng đón đánh quân cướp nước. Vậy, cái chí bình sinh thời loạn đã nâng cấp ngọn giáo thông thường lên tầm trách nhiệm với nước, với đời. Ngọn giáo ấy là non sông đã giao trách nhiệm ngàn cân mà người tráng sĩ không thể không làm tròn. Ngọn giáo cầm trong tay tráng sĩ như đo chiều rộng, chiều dài của Tổ quốc sẵn sàng bảo vệ, giữ gìn từng tấc đất của quê hương, không thể cho quân giặc tàn phá, giày xéo. Khát vọng bảo vệ Tổ quốc dồn vào đôi cánh tay tráng sĩ đang chắc trong tay cầm ngang ngọn giáo, bất chấp cả thời gian trôi qua. Thực tế Phạm Ngũ Lão cầm quân giữ các cửa ải phía bắc từ cuối năm 1282 đến năm 1285 khi quân Mông- Nguyên kéo vào xâm lược nước ta. Thời gian ấy đúng là đã mấy thu (kháp kỉ thu). Người tráng sĩ ấy đã dạn dày dày sương gió, đã từng đối mặt với kẻ thù, bất chấp mọi nguy hiểm gian nan. Dù thời gian khiến nhiều việc đổi thay, duy nhất có khát vọng gìn giữ giang sơn là không hề thay đổi trong tấm lòng của trang nam nhi đất Việt

Câu khai đã làm trọn chức năng mở ra và đã hé mở tấm lòng son sắt của Phạm Ngũ Lão đối với quê hương đất nước. Từ thế của nhân vật trữ tình hiện lên thật hiên ngang lẫm liệt nhưng giọng điệu câu thơ lại bình tĩnh, khiêm nhường, ẩn chứa một sức mạnh tiềm tàng. Một ý chí sắt đá không gì thay đổi. Đi cứu nước là niềm tự hào, kiêu hãnh, niềm hạnh phúc lớn lao của trang nam nhi thời Trần.

Tướng thì phải có quân, tướng nào quân nấy. Người tráng sĩ đang sát cánh cùng ba quân với khí thế ngất trời. Dường như chí lớn của Phạm Ngũ Lão như đã truyền tới ba quân một năng lượng tinh thần, nhạy và nhanh để để kết thành một khối. Còn hơn thế, như người giữ lửa, truyền lửa độ sáng và độ ấm không hề dừng lại mà cứ lớn dần lên. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, lòng yêu nước lại sôi nổi, cả dân tộc kết thành một khối sức mạnh

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Thủ pháp so sánh và phóng đại được tạo dựng trong câu thừa. Ngoài ra câu thơ còn tạo được một ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khác quan và cảm nhận chủ quan, giữa hiện thực và lãng mạn. Tam quân ở đây mạnh như hổ báo thì sẽ đánh đâu thắng đấy, xứng đáng là niềm tin cậy của non sông. Đội quân anh hùng ấy cùng với cả nước sẽ đánh tan quân xâm lược nhà nghề hung hãn bậc nhất thế giới bấy giờ. Thực tế ba quân như hổ báo ấy đã ba lần xé xác, nuốt trôi đội quân trâu điên hung hãn. Sau này, một nhà thơ của sứ giả thiên triều Nguyên là Trần Phu viết phần nào ghi lại tâm trạng sợ hãi của quân xâm lược khi đến nước ta

Kim qua ảnh lí đan tâm khổ

Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh

(Trong bóng lòe của binh khí long son cay đắng

Giữa tiếng rộn của trống đồng tóc bạc mọc ra)

Chính những con người với những phẩm chất anh hùng như Phạm Ngũ Lão đã làm nên hào khí Đông A chói lọi đó.

Thật sảng khoái tự hào biết mấy khi hai câu thơ gieo trồng trên một mảnh đất dường như không một lúc nào bình yên. Sinh vào thời Trần, ai cũng có cơ hội trở thành anh hùng. Đâu chỉ một lần Trần Quốc Tuấn đêm quên ngủ, ngày quên ăn chỉ với một nguyện vọng là được xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Đó là sáu chữ vàng được thêu trên lá cờ của người thiếu niên Trần Quốc Toản. Đó là việc khắc tay binh sĩ hai chữ Sát Thát… Cả một không gian trận mạc lở đất rung trời. Hào khí Đông A trong thơ Phạm Ngũ Lão hào hùng trong bối cảnh ấy. Nó bắt nhịp được bước đi của thời đại, của dân tộc trong những giờ phút lâm nguy.

Câu thừa nâng cao, phát triển ý câu khai, tiếp tục cảm hứng tỏ lòng của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Cái lý tưởng sống của Phạm Ngũ Lão còn được thể hiện ở hoài bão, ý thức của bậc nam nhi với việc lập công danh để đời. Đó là nỗi lòng với cái chí và tâm lớn lao cao cả của người anh hùng.

Trong một bài thơ tứ tuyệt Đường luật thì câu chuyển có vị trí then chốt, có khi làm chuyển cả ý thơ, chuyển cả dạng cảm xúc. Phạm Ngũ Lão đã dùng câu thơ quan trọng này để chuyển sang nói về hoài bão và lý tưởng của mình.

Nam nhi vị liễu công danh trái

Theo quan niệm Nho giáo phong kiến, làm trai trên đời phải có công danh sự nghiệp, cũng là để chứng tỏ cái chí của người quân tử, muốn được góp sức với đời góp công với nước. Có như vậy mới thỏa nguyện chí làm trai và làm vẻ vang cho cha mẹ, gia tộc. Theo sách Kinh lễ, nhà quý tộc khi sanh con trai thì lấy cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng bắn bốn phát tên ra bốn phương, ngụ ý làm trai co chí khí tung hoành ngang dọc bốn phương trời đất. Lý tưởng của chí làm trai ấy trong thời gian khá dài đã phát huy tích cực. Bao trí thức Nho gia đất Việt, các thế hệ đã sống say mê mãnh liệt với lý tưởng ấy và lưu danh muôn đời với sự nghiệp lớn lao cho đất nước, cho xã hội. Đó là một Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát, đặc biệt là Nguyễn Công Trứ

Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông

Điều đáng nói ở đây là Phạm Ngũ Lão đã gắn chí nam nhi với lý tưởng yêu nước thiêng liêng, với sự nghiệp cứu nước gian khổ mà cực kì vẻ vang. Đặt trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, chí làm trai của Phạm Ngũ Lão trong bài thơ có tác dụng to lớn đối với con người và xã hội, nó cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng hi sinh, chiến đấu cho sự nghiệp cứu nước.

Câu chuyển vang lên lên như một tuyên ngôn về cách sống anh hùng: Ai muốn sáng thì phải cháy lên!

Nhưng tướng quân Phạm Ngũ Lão, khát vọng hiến dâng còn mãnh liệt vô cùng, hầu như không có giới hạn. Cái tốt đẹp không bao giờ có điểm tận cùng. Phạm Ngũ Lão đã thể hiện khát vọng ước mơ, hoài bão mãnh liệt trong lòng ở câu hợp.

Tu thính dân gian thuyết Vũ hầu

Xuất hiện trong lòng vị danh tướng một nỗi thẹn. Suốt cuộc đời, Phạm Ngũ Lão không làm điều gì để phải thẹn với dân, với nước, với chính mình, Nói thẹn là là cách nói khiêm nhường, một cách thể hiện khát vọng, hoài bão mãnh liệt trong lòng. Mẫu nam nhi lý tưởng theo Phạm Ngũ Lão là người có tài mưu lược, có nhiều công trạng như Vũ hầu Gia Cát Lượng. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người nhỏ bé đi mà nó tôn cao nhân cách con người. Nỗi thẹn ấy đốt lên trong lòng người ngọn lửa của khát vọng vươn tới cái cao cả lớn lao. Ở một khía cạnh khác, cách nói đó lại là sự khẳng định đề cao đề cao ý thức trách nhiệm của Phạm Ngũ Lão với đất nước, với nhân dân. Câu thơ hợp đã để lại biết bao suy ngẫm cho người đọc.

Thuật hoài là lời tỏ lòng riêng của Phạm Ngũ Lão, là tiếng nói của một trái tim yêu nước mãnh liệt, thiết tha. Nhưng trong bài thơ không thấy có một đại từ nhân xưng nào. Chủ thể trữ tình ẩn dưới danh từ chung “nam nhi” nhắc đến “tam quân tì hổ” đông đảo, hùng hậu. Vì vậy, bài thơ bộc lộ khát vọng của tác giả, vừa bày tỏ trách nhiệm đối với Tổ quốc, tình cảm, ý chí, khí phách của quân dân đời Trần. Cái hay của bài thơ này còn ở độ súc tích cao theo hướng “quý hồ tinh bất quý hồ đa” trong nghệ thuật văn học trung đại. Hình thức kết cấu theo nguyên tắc “ tức cảnh sinh tình”, nó được triển khai tứ bằng cách đi từ hiện thực, chọn những hiện tượng có thực tiêu biểu để dẫn dắt đến chỗ bộc lộ những cảm xúc nội tâm sâu kín để bày tỏ tấm lòng yêu nước của tác giả và con người. Đó là “hào khí Đông A”, là cảm hứng yêu nước trong thơ lúc bấy giờ.

Phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ “Tỏ Lòng” - Mẫu số 4

“Thơ như đôi cánh nâng tôi bay

Thơ là vũ khí trong trận đánh”

                                             (Raxun- Gamzatốp)

Quả thật vậy, trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã có không ít những tác phẩm văn học từng đem lại biết bao sức mạnh và niềm tin cho nhiều thế hệ. Và một trong số những tác phẩm đó chính là bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão. Khúc tráng ca lẫm liệt ấy luôn khơi dậy trong mỗi tâm hồn Việt Nam niềm tin và tinh thần quyết thắng trước mọi thế lực xâm lăng. Sức mạnh lay động ấy đã ngời tỏa ngay từ vẻ đẹp người anh hùng thời Trần- kết tinh hùng tâm tráng chí của dân tộc Việt Nam.

Tác giả của “Tỏ lòng” - Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông Nguyên, từng làm đến chức Điện Súy và được ca ngợi là văn võ toàn tài. Phạm Ngũ Lão chỉ để lại hai bài thơ (“Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương”), nhưng tên tuổi của ông vẫn đứng cùng ngang hàng với những tác gia danh tiếng nhất của văn học đời Trần. Và ra đời trong bối cảnh cả dân tộc Đại Việt đang sục sôi khí thế “Sát Thát”, bài thơ “ Thuật hoài” chính là bức chân dung tự họa về vẻ đẹp của con người trong thời đại hào khí Đông A.

Trước hết, bài thơ “Thuật hoài” đã gợi ra hình ảnh người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp đầy hùng tâm, tráng chí. Tác giả đã khắc hoạ hình ảnh kỳ vĩ của người anh hùng cứu nước trên nền hào hùng của thời đại. Người anh hùng ấy thật mạnh mẽ, bền gan vững chí trong hành trình chiến đấu bảo vệ đất nước:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

(Múa giáo non sông trải mấy thu)”

Con người hiện lên qua câu thơ đầu mang một tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao mạnh mẽ. Câu thơ dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ đất nước. Cây trường giáo ấy dường như được đo bằng chiều ngang của non sông. Nghĩa là chủ nhân cầm cây giáo ấy phải mang kích cỡ, tầm vóc vũ trụ. So với bản phiên âm, phần dịch thơ vẫn chưa diễn tả được hết sức mạnh, vẻ đẹp của tráng sĩ. Trong bản phiên âm, vẻ đẹp hiên ngang, lẫm liệt được thể hiện ở ngay tư thế“Hoành sóc”- cầm ngang ngọn giáo. Còn ở bản dịch thơ mới chỉ dịch là “Múa giáo”, là hành động gợi sự phô diễn, khoa trương... chưa thể hiện được hết sự kì vĩ, vững chắc. Sự kì vĩ ấy càng hiện rõ trong mối quan hệ với không gian và thời gian: không gian mở ra theo chiều rộng sông núi, thời gian được đo đếm bằng mùa, năm (kháp kỷ thu)chứ đâu phải chỉ trong chốc lát

Hơn nữa, sự kì vĩ, hào hùng của hình tượng người anh hùng càng được nâng lên qua khí thế hào hùng của thời đại:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)”

Hình ảnh “ba quân” là để nói về quân đội nhà Trần nhưng đồng thời còn là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh dân tộc. Ở đây nghệ thuật so sánh đã vừa cụ thể hoá sức mạnh vật chất ba quân (mạnh như hổ báo) vừa hướng tới khái quát hoá sức mạnh tinh thần của đội quân mang hào khí Đông A (khí thế át sao trời). Ở câu thơ này, phần dịch thơ với cụm từ “nuốt trôi trâu” cũng chưa diễn tả được hết sức mạnh của quân đội như “khí thôn ngưu” trong bản phiên âm.

Hình ảnh ba quân với khí thế dũng mãnh này chính là cái nền tôn thêm chất hùng tráng của hình tượng người tráng sĩ “hoành sóc”. Và tự bản thân hình ảnh “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” đã khẳng định sự tất thắng của dân tộc trước kẻ thù xâm lăng.

Như vậy, hai câu thơ đầu đã thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, mối quan hệ hữu cơ giữa người anh hùng và thời đại anh hùng, giữa một công dân anh hùng và một dân tộc anh hùng.

Không chỉ đẹp ở sự kì vĩ, lẫm liệt, hào hùng, hình tượng người anh hùng còn đẹp bởi cái chí, cái tâm cao cả. Đó là con người ôm ấp hoài bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm Ngũ Lão, lí tưởng sống mà ông hướng tới là đánh giặc lập công để đền ơn vua, báo nợ nước. Lý tưởng cao đẹp ấy được thể hiện qua món nợ công danh và nỗi thẹn với vĩ nhân:

“Công danh nam tử còn vướng nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Hai câu thơ đã thể hiện hùng tâm, tráng chí của người anh hùng thời Trần. Đó là lí tưởng sống của bao trang nam nhi thời phong kiến.

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông”

                                             (Nguyễn Công Trứ)

Hay ý chí hiên ngang của bậc lão anh hùng trong “Cảm hoài”:

“Quốc thù chưa trả già sao vội

Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy”

                                                     (Đặng Dung)

Câu thơ của Phạm Ngũ Lão đã nói lên khát vọng lập nên công danh sánh ngang với bậc tiền nhân lỗi lạc. Và ý thơ cũng ẩn chứa một lời thề trọn đời cống hiến, xả thân cho vương triều nhà Trần, cho non sông đất nước Đại Việt. Hùng tâm tráng chí của người anh hùng được thể hiện ở ngay nỗi “thẹn”- thẹn chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu đời Hán để trừ giặc cứu nước. Đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão được đem hết tài trí để cống hiến cho đất nước. Sau này trong văn chương, chúng ta cũng bắt gặp những cái “thẹn” rất cao đẹp như trong thơ Nguyễn Khuyến:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

                                             (Thu vịnh)

Với Nguyễn Khuyến đó là cái “thẹn” của một nhà nho – nghệ sĩ. Còn trong “Thuật hoài” là nỗi thẹn của bậc anh hùng – nghệ sĩ.

Và vẻ đẹp của người anh hùng “Sát Thát” ấy được Phạm Ngũ Lão khắc họa bằng bút pháp rất đặc sắc: ngôn ngữ tráng lệ, kĩ vĩ, gợi ra dáng vóc của những người anh hùng thần thoại, những người dũng sĩ trong sử thi.... Đặc biệt, là bài thơ tỏ chí, tỏ lòng nhưng không hề khô khan bởi nghệ thuật dựng hình ảnh biểu tượng, hàm súc, giàu ý nghĩa.

Chính bởi bút pháp nghệ thuật đặc sắc như vậy, tác giả đã sáng tạo nên hình tượng người anh hùng thật giàu ý nghĩa. Bài thơ là bức chân dung tự hoạ của người dũng tướng thời Trần đầy hào hùng, trên cái nền đất nước tràn đầy sức mạnh quật cường. Hơn nữa, hình tượng thơ là kết tinh của tinh thần yêu nước và phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam. Bởi vậy cùng với “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Tụng giá hoàn kinh sư” (Trần Quang Khải), bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão sáng ngời hào khí Đông A.

Với vẻ đẹp rực sáng ấy, hình tượng người anh hùng đời Trần chính là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta trong cuộc sống hiện nay . Trước hết, vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt của người tráng sĩ luôn khơi dậy trong mỗi chúng ta ý thức rèn luyện, tu dưỡng về mặt thể chất. Hơn thế, ý chí được thể hiện qua nỗi “thẹn” của người anh hùng chính là kim chỉ nam định hướng lí tưởng sống cho mỗi người. Vậy nỗi ‘thẹn” của Phạm Ngũ Lão có thể hiểu như thế nào? Trước hết, đó có thể là vì lòng yêu nước vô cùng sâu sắc, ý thức trách nhiệm với giang sơn quá lớn lao khiến cho tác giả không hài lòng với công trạng của mình. Cũng có thể đó là vì lòng khiêm tốn rất chân thành mà thấy công trạng của mình không đáng kể. Hoặc vì lý tưởng sống của chàng thanh niên yêu nước này quá hào hùng với khát vọng vươn tới những đỉnh cao chiến công khiến ông không bằng lòng với thành tích của mình.

Thế nhưng, dù vì lý do gì đi nữa thì sự hổ thẹn của Phạm Ngũ Lão vẫn là sự hổ thẹn cao quý, hữu ích. Bởi nó là nguồn động lực để con người không ngừng vươn tới những đỉnh cao chiến công chứ không ngủ quên trong vinh quang hiện tại. Trong cuộc sống hiện nay, mỗi người cần sống có lý tưởng, hoài bão có mục đích cao đẹp, bởi : “Những khát vọng tốt đẹp chính là cơn gió đẩy con thuyền cuộc đời mặc dù nó vẫn thường gây nên những cơn giông tố” (Fontaine) và “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường, không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định mà không có phương hướng thì không có cuộc sống” (Leptonxtoi). Chính vì vậy, mỗi người hãy hướng tới lý tưởng sống cao đẹp ngày nay là cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Hãy luôn rèn luyện, phấn đấu làm việc tận tụy và cống hiến hết mình.

Là thế hệ mùa xuân của đất nước, tuổi trẻ chúng ta càng phải xác định được lý tưởng sống của mình: “Sống là cho chết cũng là cho” (Tố Hữu). Tuổi trẻ cần cảnh giác với tâm lý, hoặc là tự thoả mãn với chút công trạng của mình hoặc đòi hỏi đất nước phải “trả công” cho mình. Hãy xác định đóng góp công sức để xây dựng đất nước là nghĩa vụ thiêng liêng và đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ Quốc” . Đặc biệt giờ đây khi đất nước đang còn nhiều khó khăn, đang phải “neo mình đầu sóng cả”, mỗi người hãy nhận thức được đúng đắn vai trò của mình. Mũi khoan Hải Dương 981 xoáy vào thềm lục địa “Đất nước” nhói đau từ biển lên rừng, buốt tim 90 triệu người dân Việt. Và bởi nước “Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy sẽ không bao giờ thay đổi”. (Hồ Chí Minh). Chính vì vậy, toàn thể dân tộc Việt Nam, nhất là tuổi trẻ trên dưới một lòng, nguyện đem tất cả tính mạng, của cải để giữ vững nền tự do, độc lập đó” (Hồ Chí Minh).

Bên cạnh đó, cũng cần phải phê phán những con người có lối sống vị kỷ, không có lý tưởng, mục đích sống. Bởi như vậy là họ đang tự huỷ hoại chính bản thân, cuộc sống của họ “đang rỉ đi, đang mòn ra, đang nổi váng”.

Như vậy mỗi người chúng ta hãy luôn sống có lý tưởng, khát vọng, nhân cách cao đẹp. Và hình tượng người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp kỳ vĩ, lẫm liệt, với lý tưởng sống cống hiến sẽ luôn cháy sáng trong mỗi tâm hồn Việt Nam. Đó cũng là hành trang quý giá nâng bước cho mỗi chúng ta trên con đường xây dựng và bảo vệ tổ Quốc. Tiếp bước truyền thống của cha ông, giờ đây khi “Tổ quốc đang bão giông từ biển”, nêu cao tư tưởng nhân nghĩa chúng ta nguyện giữ vẹn nguyên hình hài tổ quốc bằng tinh thần hòa hiếu nhất. Song , vì sự toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta cũng sẵn sàng chấp nhận những mất mát, những hy sinh một khi không còn con đường nào khác. Và khắc ghi lời dặn của cha ông, chúng ta nguyện đưa con tàu tổ quốc vượt qua mọi phong ba bão tố:

“Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất

Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”.

                                                            (Nguyễn Việt Chiến)

Phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ “Tỏ Lòng” - Mẫu số 5

Đến với “Tỏ lòng”, Phạm Ngũ Lão đã xây dựng hình ảnh con người và quân đội nhà Trần hiện lên với vẻ đẹp về sức mạnh, phẩm chất anh hùng cùng tinh thần chiến đấu bất bại.

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”

(Múa giáo non sông trải mấy thu)

Khi giặc Nguyên tràn vào xâm lược nước ta. Chúng đã bộc lộ rõ sự tàn ác, hung bạo, khiến cuộc sống của nhân dân ta phải chịu nhiều khổ cực. Và để đối phó với kẻ thù man rợ và nguy hiểm ấy cần có một bản lĩnh phi thường. Với câu thơ này, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được tầm vóc của con người cũng như quân đội nhà Trần. Cụm từ “hoành sóc giang sơn” vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh giữa giang sơn rộng lớn, người tráng sĩ cầm ngọn giáo trong tư thế đầy hiên ngang để bảo vệ tổ quốc. Ngọn giáo là vũ khí quan trọng và đắc lực, cùng với người anh hùng xông pha mọi trận mạc thời xưa. Lúc này, người anh hùng đứng giữa không gian bao la của vũ trụ mà không hề nhỏ bé. Ngược lại họ mang một tầm vóc lớn lao, mạnh mẽ. Không chỉ là không gian, mà còn là thời gian “trải mấy thu” - hình ảnh ước lệ thể hiện khoảng thời gian làm nhiệm vụ ấy đã kéo dài rất lâu, từ năm này qua năm khác. Nhưng dù có vậy, năm tháng không thể nào đo được ý chí người anh hùng. Họ vẫn hiên ngang đứng vững, quyết tâm đánh bại mọi kẻ thù xâm lược.

Câu thơ thứ hai mang cả ý chí quyết đấu của toàn dân tộc:

“Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”

(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh kết hợp với phóng đại được sử dụng trong câu thơ. Hình ảnh “tam quân” cho thấy sức mạnh của quân đội nhà Trần. Không chỉ về số lượng, mà còn về cả chất lượng. Sự đồng lòng của “tam quân” tạo nên một sức mạnh, sánh ngang với loài hổ - được coi là chúa tể rừng xanh có uy lực và sức mạnh, với khí thế ngùn ngụt chất cao hơn núi đã “nuốt trôi trâu”. Nếu ở câu thơ thứ nhất là bản lĩnh của một người quân tử, trách nhiệm của một cá nhân với đất nước thì sang câu thơ thứ hai đó là bản lĩnh của một cộng đồng, của trăm vạn người quân tử, trách nhiệm của muôn người với dân tộc. Nó đã trở thành “hào khí Đông A” của cả một dân tộc. Với một đội quân như vậy, tin chắc rằng sẽ đánh tan mọi đạo quân xâm lược hung dữ nhất.

Tóm lại, Phạm Ngũ Lão thật sự đã cho người đọc thấy được hình ảnh của con người, cũng như quân đội nhà Trần với sức mạnh phi thường, tư thế hiên ngang và phẩm chất anh hùng.

icon-date
Xuất bản : 27/01/2022 - Cập nhật : 07/02/2022