Nguyễn Trãi là một trong những vị anh hùng, là một đại thi hào của dân tộc. Ông đưa cái tâm của mình vào trong từng tác phẩm, quan điểm sáng tác của Nguyễn Trãi được cả người xưa và hiện tại đánh giá cao. Trong bài viết dưới đây, mời các em cùng tìm hiểu về quan điểm sáng tác của Nguyễn Trãi qua những dẫn chứng thú vị.
Văn chương của Nguyễn Trãi bắt nguồn từ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong quá trình giành lại độc lập cho dân tộc. Ông hiểu rằng văn nghệ chỉ có thể phát triển và thành công từ thực tế cuộc sống và tâm hồn của nhân dân, từ những hoàn cảnh lịch sử và xã hội mà họ đang trải qua. Trong “Túi thơ chứa chất mọi giang sơn” (Tự thán 2 – Quốc âm thi tập), ông cùng ăn cùng sống, cùng chiến đấu với nhân dân. Vậy nên, Nguyễn Trãi hiểu được những mất mát to lớn, những cố gắng cũng như gian khổ của người dân trong mỗi cuộc kháng chiến.
"Hái cúc hương lan, hương bén áo
Tìm mai, đạt nguyệt, tuyết xâm khăn"
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then"
"Cò nằm, hạc lẩn nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con"
Nguyễn Trãi nhìn nhận văn chương là một cách thể hiện sự gắn kết sâu sắc giữa con người và thiên nhiên, đất nước cũng như giữa tác giả và độc giả. Ông thể hiện sự tương tác tình cảm giữa con người và môi trường xung quanh thông qua việc mô tả chân thực, lời văn tươi đẹp về cảnh vật xuất hiện trong chính cuộc sống thường ngày. Vậy nên, những dòng thơ chất phác ấy chẳng dành cho vua quan cả đời nhung lụa trong bốn bề tường cung, đó là dành cho những bách tính ngày ngày làm lụng. Ông viết văn ở mọi lúc, mỗi cảnh đều là một nguồn cảm hứng: “Qua đòi cảnh chép câu đòi cảnh; Nhàn một ngày nên quyển một ngày” (Tự thán 5 – Quốc âm thi tập).
“Nhãn để nhất thời thi liệu phú
Ngâm ông thùy dữ thế nhân đa”.
(Hý đề – Ức Trai thi tập)
"Nợ cũ chước nào báo bổ
Ơn thầy ơn chúa liễn ơn cha"
"Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội, cá trong ao"
Nguyễn Trãi không chỉ nhận thức giá trị của văn học dân gian mà còn kết hợp linh hoạt với văn học viết. Ông hiểu rằng văn chương cần phải nắm bắt, tái hiện chân thực cuộc sống hàng ngày của nhân dân, từ ngôn ngữ, tập tục, cho đến tư duy. Sự kết hợp này tạo ra một sự tương quan mật thiết giữa tác giả và người đọc, biến một tác phẩm trở thành “câu cửa miệng” của con người. Ông chọn lựa những khẩu ngữ thông thường của cuộc sống để tạo nên những hình ảnh sắc nét, sống động trong tác phẩm.
“Nên thợ, nên thầy vì có học
No ăn, no mặc bởi hay làm”.
(Bảo kính cảnh giới 46)
“Co que thay bấy ruột ốc
Khúc khuỷu làm chi trái hòe”.
(Trần tình 8)
Nguyễn Trãi không chỉ sử dụng ngôn ngữ dân gian mà còn là người lưu giữ và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Ông lựa chọn những câu ca dao, tục ngữ, khẩu ngữ dân gian và biến chúng thành những tác phẩm văn học đầy ý nghĩa:
Trong dân gian có câu tục ngữ “Con sâu làm rầu nồi canh”. Từ đó, Nguyễn Trãi viết:
“Chẳng ngừa nhỏ, âu lên lớn
Nếu có sâu thì bỏ canh”.
(Bảo kính cảnh giới 21 – Quốc âm thi tập)
Từ câu ca dao quen thuộc với con người:
“Bể sâu còn có kẻ dò
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”.
Nguyễn Trãi đã viết:
“Dễ thay ruột bể sâu cạn
Khôn biết lòng người ngắn dài”.
(Ngôn chí 6 - Quốc âm thi tập)
Nguyễn Trãi thể hiện quan điểm rằng văn chương không nên quá phức tạp hay xa lạ với cuộc sống hàng ngày của người đọc. Ông cũng đã thực hiện được điều này bằng cách sử dụng ngôn ngữ gần gũi, ông tạo ra một môi trường đọc dễ tiếp cận và thân thiện, giúp người đọc cảm nhận và hiểu sâu hơn về thông điệp và ý nghĩa mà ông muốn truyền tải.
Thạch Lam đã nhận định: "Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn". Nhận định này hoàn toàn đúng với Nguyễn Trãi, bởi văn học có thể tạo ra ảnh hưởng, thay đổi tư tưởng và thậm chí làm thay đổi cuộc sống xã hội. Sự sáng tạo với ngôn ngữ và tư duy văn hóa có khả năng thay đổi ý thức và thái độ của con người, cùng với việc tạo ra một liên kết mạnh mẽ giữa nhà văn và độc giả.
“Văn chương chép lấy đòi câu thánh
Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng”.
(Bảo kính cảnh giới 5 – Quốc âm thi tập)
Ông sử dụng lời văn và lý lẽ hùng hồn để thách thức, uy hiếp tinh thần quân xâm lược, khuyến khích lòng đoàn kết của nhân dân và thực hiện đấu tranh cho độc lập. Các tác phẩm của ông không chỉ là cách truyền đạt thông tin mà còn là một cách để kêu gọi và thúc đẩy sự thay đổi trong tư duy của quân lính, người dân khi ấy: “Các ngươi nếu biết kéo quân ra thành, cùng ta hòa hảo thân tình thì ta coi các ngươi như anh em ruột thịt…nếu không thế tùy các ngươi. Trong khoảng sớm tối, sẽ khắc thấy nhau, đến lúc bấy giờ hối cũng không kịp. Các ngươi hãy nên nghĩ đi” (Thư dụ thành Bắc Giang).
Đặc biệt, trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Trãi trong chương trình văn học cũng chỉ rõ ông là một người thương dân. Văn chương có khả năng thể hiện tư tưởng nhân nghĩa - tư duy về lòng nhân ái, đạo đức và tình thương đối với con người và xã hội qua Bình Ngô đại cáo:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo".
Ông đưa những tư tưởng của mình vào trong văn học, biến một tác phẩm văn thơ trở thành một bài hịch lay động lòng người. Ngoài Bình Ngô đại cáo, tư tưởng yêu nước của ông còn thể hiện trong rất nhiều tác phẩm. Cứ nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta lại nhớ đến hình ảnh một thi nhân yêu nước luôn đau đáu về cuộc sống của nhân dân thiên hạ.
"Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen"
(Thuật hứng - 24)
"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông"
(Thuật hứng - 5)
------------------------------------------------------------
Vậy là trong bài viết trên, Toploigiai đã cùng các em tìm hiểu về quan điểm sáng tác của Nguyễn Trãi. Hy vọng bài viết trở thành một tư liệu giúp các em phân tích văn, thơ và con người của ông. Chúc các em học tốt môn văn!