logo

Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô

Bạn đang gặp khó khi làm bài văn Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô? Đừng lo! Hãy tham khảo những bài văn mẫu đã được tuyển chọn và biên soạn với nội dung hay nhất của Top lời giải dưới đây để nắm được cách làm cũng như bổ sung thêm vốn từ ngữ nhé. Chúc các bạn có một tài liệu bổ ích!


Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô - Bài mẫu 1

Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã bày tỏ ý nguyện muốn dời đô từ Hoa Lư về Đại La để đóng đô ở nơi “trung tâm trời đất, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”, để “trên vâng mệnh trời, dưới hợp lòng dân”. Như vậy, tư tưởng yêu nước đã được thể hiện ở việc gắn liền sự bền vững của một triều đại với ý nguyện của muôn dân. Khi nhìn lại các triều đại trước, ông đã rất đau xót cho số vận quá ngắn ngủi, để cho “trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi”. Từ đó ta thấy rằng, xây dựng đất nước là đem lại hạnh phúc, thái bình cho dân. Xưa nay, thủ đô là trung tâm về văn hoá, chính trị của một đất nước. Nhìn vào thủ đô là nhìn vào sự thịnh suy của một dân tộc. Thủ đô có ý nghĩa rất lớn. Dường như lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời đều có các cuộc dời đô như thế. Mỗi lần dời là một thử thách của cả dân tộc. Đó phải là quyết định của người có đầu óc ưu tú nhất thời đại. Có thể nói, với trí tuệ anh minh, với lòng nhân hậu tuyệt vời, Lý Công Uẩn đã chỉ ra lợi thế về lịch sử, địa lý, hình thế núi sông, về sự thuận tiện trong giao lưu văn hóa và phát triển mọi mặt của thành Đại La, nhưng ông cũng không quên chỉ ra những thuận tiện cho nhân dân. Đặc biệt, ông khẳng định “đây quả thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Những lời lẽ ấy tuy giản dị nhưng lại thấm đẫm niềm tự hào khi nói về đất nước, thể hiện một khao khát mãnh liệt đó là thống nhất giang sơn về một mối. Trong lời khẳng định ấy, ta còn đọc được khí phách của một dân tộc: Đại La sẽ là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Giá trị chủ yếu của bài là tư tưởng yêu nước. Tiếng nói của tác giả là tiếng nói của nhân dân, của thời đại và khát vọng về một đất nước độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.

Tiếp theo triều đại nhà Lý rất vẻ vang với sự khởi thuỷ là vị vua anh minh Lý Thái Tổ, nước Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình ở thời đại nhà Trần với đầy những chiến công oanh liệt. Những người lãnh đạo thời kì này đều ghi tên mình vào sử sách. Trần Quốc Tuấn, tác giả “Hịch tướng sĩ” là một ví dụ. Đọc “Hịch Tướng Sĩ” - một áng thiên cổ hùng văn, ta cứ ngỡ như được nghe tiếng nói của cha ông, của non nước. Nó nồng nàn một tinh thần yêu nước, nó biểu hiện một lòng căm thù giặc sâu sắc, một ý chí quyết chiến quyết thắng quân thù không chỉ là của riêng Trần Quốc Tuấn mà là kết tụ trong đó những ý nguyện tình cảm của dân tộc. Trước tai hoạ đang đến gần: quân Mông - Nguyên đang lăm le xâm lược lần thứ hai với quy mô chưa từng thấy hòng không cho một ngọn cỏ của nước Đại Việt được mọc dưới vó ngựa của 50 vạn quân, Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch” để kêu gọi Tướng sĩ một lòng, chuẩn bị đương đầu với cuộc chiến sống còn. Những lời lẽ đanh thép mà chan chứa tình cảm, những lí lẽ sắc bén mà đi vào lòng người đã làm thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và ý thức dân tộc ở các tướng sĩ, chỉ ra tình hình nguy ngập của đất nước, chỉ ra cho tướng sĩ thấy tội ác của bọn sứ giặc, và những việc cần làm để chống giặc. Ông đã tự bày tỏ lòng mình, lòng căm giận như trào ra đầu ngọn bút, thống thiết và sâu lắng: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Nỗi đau của Trần Quốc Tuấn chính là nỗi đau của dân tộc khi độc lập tự do của đất nước bị xâm phạm, là tinh thần của một thời đại “sát thát”, lòng yêu nước của tác giả cũng là của cả dân tộc Đại Việt anh hùng. Cùng với sự phê phán nghiêm khắc thái độ và hành động sai trái của tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn còn chỉ bảo ân cần những việc cần làm, đó là đề cao cảnh giác, “huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên”. Đó là xác định duy nhất một con đường là tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước, mang lại tự do cho nhân dân.


Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô - Bài mẫu 2

Lý Công Uẩn (974-1028), là một vị vua anh minh, lỗi lạc có nhiều công lao trong việc xây dựng một Đại Việt hùng mạnh, độc lập tự cường, với tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc, đặc biệt là tầm nhìn xa trông rộng của một đấng minh quân trong việc ra các quyết định quan trọng quyết định vận mệnh dân tộc, đất nước. Một trong số những dấu ấn lớn nhất trong suốt những năm tháng trị vì của Lý Thái Tổ ấy là sự kiện dời đô từ Hoa Lư về Đại La năm 1010, khẳng định ý chí và sức mạnh tự cường của dân tộc sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Sự kiện này được ghi lại trong một tác phẩm rất nổi tiếng ấy là Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô), không chỉ đơn thuần là sự ban hành mệnh lệnh từ một vị vua mà còn đan xen những yếu tố tâm tình , vừa là đơn thoại cũng lại là đối thoại, trao đổi. Bên cạnh nội dung ban bố một mệnh lệnh quan trọng thì những lập luận, dẫn chứng thuyết phục và sắc bén trong bản chiếu này cũng thể hiện một tư tưởng rất rõ ràng ấy chính là tinh thần yêu nước sâu sắc.

Trước hết tư tưởng yêu nước được thể hiện trong cách mà tác giả đưa ra lý do phải dời đô từ Hoa Lư về Đại La ấy là "chỉ vì muốn đóng đô ở trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi". Như vậy mục đích chính của việc dời đô chính là để đặt nền tảng cho sự phát triển phồn thịnh của đất nước trong tương lai, hướng tới việc quy tụ tinh hoa của đất nước về chốn thích hợp, xây dựng một đất nước ngày càng phát triển, để cho con cháu mai sau được hưởng thái bình, thịnh trị. Thêm vào đó việc dời đô không phải là ý muốn của riêng cá nhân Lý Thái Tổ, mà đó là một quyết định tuân theo tư tưởng "mệnh trời", dưới lại thuận theo ý kiến của dân, dân chúng có đồng lòng thì mới thực hiện, tức là vẫn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Có thể nói rằng tư tưởng yêu nước, thương dân đã thể hiện một cách rõ ràng trong phần mục đích của việc dời đô. Bên cạnh đó, để củng cố và bổ sung cho mục đích và ý nghĩa chính đáng của việc dời đô về Đại La, Lý Thái Tổ đã tinh tế dẫn ra những bằng chứng xác thực từ trong lịch sự của Trung Hoa - quốc gia có ảnh hưởng nhiều đến Đại Việt và cả những dẫn chứng từ trên chính lịch sử nước nhà. Tác giả đã chỉ ra trong quá khứ, nhà Thương đã có đến 5 lần dời đô, nhà Chu cũng có đến 3 lần, mà sau những lần dời dời đô ấy vận nước đều đi lên, phong tục được phồn thịnh. Trái lại Lý Thái Tổ cũng có ý chê trách hai nhà Đinh, Lê khi "theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời", không chịu thay đổi, khiến cho "triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn". Có bài học trước mắt từ các triều đại cũ, khiến Lý Công Uẩn nhanh chóng nhận thức được cần thiết của việc dời đô, để tránh xảy ra những cớ sự đau xót, khi triều đại kém phát triển, liên tục gặp phải tai ương, nhân dân khốn đốn. Nhìn nhận từ việc Lý Công Uẩn dẫn chứng từ những triều đại của Trung Hoa, cùng với lịch sử hai triều đại Đinh, Lê kết hợp với tư tưởng mệnh trời, đã chứng minh được rằng việc dời đô là hoàn toàn hợp lý, cần thiết nhất trong giai đoạn này, khi đất nước đã ổn định, không còn thù trong giặc ngoài, thì việc kiến thiết xây dựng đất nước cần có một kinh đô trung tâm, hội tụ đầy đủ các điều kiện thuận lợi, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước.

Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô hay nhất

Tư tưởng yêu nước không chỉ được thể hiện ở mục đích chính đáng của việc dời đô về Đại La, mà còn thể hiện ở việc Lý Công Uẩn đưa ra những lợi thế của thành Đại La so với kinh đô Hoa Lư cũ. Điều đó bộc lộ tâm huyết, tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, một lòng muốn cải thiện vận mệnh đất nước và dân tộc, mong cho nhân dân có được cuộc sống sung túc, phồn thịnh. Ông đã nghiên cứu và tìm hiểu rất kỹ về kinh đô mới, khi lần lượt đưa ra các lợi thế nổi bật của thành Đại La về nhiều phương diện. Về vị trí địa lý "thuộc vào nơi trung tâm trời đất" chỗ tập trung nhân mạch giao thương buôn bán, thuận lợi cho việc di chuyển, thêm vào đó "địa thế rộng mà bằng, đất đai cao lại thoáng" có thể giúp nhân dân an cư lạc nghiệp tránh khỏi những nạn thiên tai lũ lụt. Về mặt lịch sử "vốn là kinh đô cũ của Cao Vương", Cao Vương xưa vốn là một viên quan của Trung Quốc nhận mệnh sang nước ta cai trị vùng đất Giao Chỉ đã chọn Đại La làm chỗ đặt cơ sở cai trị, chứng tỏ một điều rằng Đại La là một vùng đất có nhiều thuận lợi. Xét về phương diện phong thủy thì nơi đây lại có được cái thế đất tuyệt đẹp "rồng cuộn hổ ngồi", "đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông tựa núi", mà với quan niệm của người xưa thì với thế đất ấy Đại La thật xứng đáng là nơi ở của bậc vương giả, là "kinh đô của đế vương muôn đời". Đặc biệt sau khi đưa ra những lý lẽ khẳng định sự phù hợp của Đại La với vai trò là một kinh đô mới, Lý Thái Tổ cũng bộc lộ sự anh minh, sáng suốt và tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc khi đặt ra một câu hỏi mang tính chất tham khảo, hỏi ý thần dân rằng "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?". Có thể thấy rằng, dù bản chiếu là để ban hành một mệnh lệnh có tính chất bắt buộc, quyết định là lời nói của đế vương, thế nhưng trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, tác giả còn đan xen thêm cả những câu văn bộc lộ cảm xúc, lời tâm tình rất đỗi chân thành, dễ đi vào lòng người, đem đến hiệu quả thuyết phục mạnh mẽ và sự đồng thuận của dân chúng.

Tổng kết lại, tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn bao gồm mấy phương diện chính sau đây: Thứ nhất là ý chí khát vọng mạnh mẽ của dân tộc Đại Việt trong việc xây dựng một đất nước hùng cường, độc lập tự do, thể hiện rất rõ trong quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Thứ hai là tư tưởng vì nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm cơ sở chính để thay đổi và ra những quyết định trọng yếu. Và cuối cùng là tấm lòng tâm huyết, chân thành, tầm nhìn xa trông rộng, luôn cố gắng thay đổi vận mệnh dân tộc của Lý Thái Tổ cũng là một biểu hiện rất rõ nét của tư tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc.

>>> Xem thêm: Thuyết minh tác giả tác phẩm bài Chiếu dời đô


Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô - Bài mẫu 3

Trong những áng văn nghị luận trung đại, Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn có một vị trí quan trọng. nó là áng văn khởi đầu cho nền văn học thời Lí - Trần. Hơn nữa, nó là áng văn đầu tiên thể hiện khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất, hung cường và khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Chiếu dời đô ra đời trong hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt. Tuy không phải là hoàn cảnh giặc thù đang lăm le ngoài biên ải, vận mệnh Tổ quốc lâm nguy như hoàn cảnh ra đời của Hịch tướng sĩ. Cũng không phải không khí tưng bừng rộn rã của cả dân tộc đang ca khúc khải hoàn như hoàn cảnh ra đời của Bình ngô đại cáo. Đây là hoàn cảnh đất nước đã thái bình. Nhưng nền thái bình ấy còn mong manh, nguy cơ giặc giã thôn tính Đại Việt chưa phải là hết. Đây là thời điểm dân tộc ta đã giành được chủ quyền, có núi sông riêng, chế độ riêng, nhưng các triều đại Đinh- Tiền Lê nối tiếp nhau ra đời rồi cũng nhanh chóng tiêu vong. Nhà Lí thành lập. Một trọng trách nặng nề đè nặng trên đôi vai vương triều họ Lí. Làm thế nào để giữ yên giang sơn bờ cõi, bảo tồn được thành quả của cha ông đã giành được? làm thế nào để phát triển đất nước ngày càng hùng cường? Niềm trăn trở ấy đã biến thành quyết định dời đô của Lí Thái Tổ(Lí Công Uẩn), và bài Chiếu đã ra đời. Hơn ai hết, Lí Công Uẩn hiểu rõ lí do phải dời đô cũng như lợi ích của việc dời đô. Trong lịch sử nhân loại, đã có không ít những lần dời đô. Không xét đâu xa lạ, chỉ riêng một quốc gia cận kề với Đại Việt là Trung Hoa, chỉ ở hai triều đại thôi cũng đã có tới vài lần phải thay đổi kinh đô: Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Việc dời đô của các vị đế vương Thương, Chu ấy phải đâu là những việc làm tùy tiện, theo ý riêng của mình. Đó là những việc làm có suy tính đến sự thiệt hơn, đến sự hưng thịnh, tồn vong của giang sơn, xã tắc, đến hạnh phúc lâu dài của trăm họ, muôn dân. Thật là một việc làm trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân, đáng là tấm gương để đời sau noi theo. Từ bài học của các đế vương Trung Hoa, đi sâu vào thực tế của Đại Việt, Lí Thái Tổ càng thấy bức xúc, trăn trở: Kinh Đô của Đại Việt đóng ở Hoa Lư, nơi đất hẹp hè thưa, địa thế tuy có hiểm trở nhưng đâu phải là nơi thuận tiện cho việc giao lưu phát triển, làm sao vận nước có thể lâu dài, phong tục có thể phồn vinh như các triều đại Thương, Chu bên Trung Quốc? Và thực tế là số vận của hai nhà Đinh, Lê không được lâu bền, số vận ngắn ngủi và trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi há chẳng phải là điều đang diễn ra đó sao? Không chỉ bức xúc, trăn trở, nhà vua còn cảm thấy rất đau xót về việc đó. Tình cảm chân thành của ông là khát vọng về đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường. Khát vọng ấy biến thành ý chí hành động không thể chuyển dời. Bắt nguồn từ một khát vọng lớn lao, cao cả, với một vị trí mẫn tiệp, với tầm nhìn xa, trông rộng của một bặc thiên tài kiệt xuất, vị đế vương nhà Lí đã tìm được cho dân tộc ta một địa danh lí tưởng để định đô lâu dài. Đó là thành Đại La.( Hà Nội ngay nay). Nhà vua chỉ rõ các bá quan văn võ, cho thần dân cả nước thấy được những lợi thế vô cùng lớn của thành Đại La mà không nơi nào trên quốc gia Đại Việt có được. Thứ nhất, về vị trí địa lí ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuốn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Thứ hai, vế chính trị, văn hóa thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Đóng đô ở một nơi như thế hỏi làm sao vận nước có thể ngắn ngủi, trăm họ có thể hao tổn, muôn vật có thể không được thích nghi? Chắc chắn là vận nước sẽ được lâu dài, phong tục sẽ được phồn vinh, trăm dân muôn họ sẽ được an hưởng thái bình hạnh phúc. Hỏi có còn mong ước gì hơn? Một khát vọng thật đẹp. Khát vọng của Lí Thái Tổ cũng là khát vọng của những người dân Đại Việt lúc ấy và cả sau này. Chiếu dời đô đã đánh trúng vào niềm khao khát xây dựng một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cườngcuar cả dân tộc nên nó được mọi người nồng nhiệt hưởng ứng. Một kinh đô mới đã ra đời và tồn tại vĩnh viễn. Chiếu dời đô không chỉ thể hiện một khát vọng lớn, nó còn thể hiện được khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Do thế và lực còn yếu, chưa đủ sức để đối phó với nạn ngoại xâm nếu định đô ở đồng bằng, nên hai nhà Đinh, Lê phải chọn Hoa Lư làm kinh đô mong dựa vào địa thế hiểm trở để bảo tồn vương triều, giữ vững chủ quyền. Bởi chưa lớn mạnh nên số vận ngắn ngủi, trăm họk phải hao tổn là lẽ đương nhiên. Nhưng nay, nhà Lí là sự kế tục sự nghiệp của các triều đại cha anh,có thế đã lớn mạnh hơn. Nhưng dù có lớn mạnh hơnhay chưa thực sự lớn mạnh thì quyết định dời đô của vị Thái Tổ họ Lí cũng đã khẳng định được khí phách anh hùng, dám đương đầu với mọi thử thách, vững tin vào khả năng của mình. Khí phách của vị đế vương đầu tiên của nhà Lí cũng là khí phách của cả một vương triều, của cả một dân tộc đang trên đà lớn mạnh. Ngày nay, càng đọc kĩ Chiếu dời đô, càng suy ngẫm kĩ về tư tưởng bài Chiếu, ta càng thấy thấm thía sự sang suốt và quyết định đúng đắn của một bậc đế vương hào kiệt, càng thêm biết ơn ông đã đặt nền móng cho sự bền vững, hưng thịnh lâu dài của đất nước, càng thêm cảm phục và quý mến ông.


Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô - Bài mẫu 4

Một trong hai truyền thống nổi bật nhất của văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng đó là tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc. Tinh thần ấy thấm đẫm trong hầu hết những tác phẩm văn chương còn lại đến ngày nay. “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ” và “Bình Ngô đại cáo” tuy là những áng văn chính luận nhưng giá trị văn chương của nó lại vượt qua tầm thời đại, chính bởi vì trong các tác phẩm này, lòng yêu nước và tự hào dân tộc đã được thể hiện ngời sáng, đầy sức hấp dẫn thông qua những hình tượng nghệ thuật đặc sắc.

“Thiên đô chiếu” (Chiếu dời đô) là tác phẩm ra đời sớm nhất, được Lý Công Uẩn viết khi vừa mới lên ngôi năm 2010. Bài chiếu bày tỏ ý định muốn dời kinh đô của nhà vua từ đất Hoa Lư về thành Đại La. Việc dời đô không chỉ thể hiện một tầm nhìn chiến lược mà còn mang cả một khát khao xây dựng đất nước phồn vinh và thịnh vượng lâu dài. Bởi việc đóng đô ở đâu có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của đất nước. Đất Hoa Lư là đất hẹp, hiểm trở, chỉ phù hợp làm kinh đô khi triều đình thế và lực còn yếu, đất nước còn kém phát triển, tiện cho việc phòng thủ, chống lại sự đe doạ của giặc thù. Nhưng khi đất nước đã phát triển với một tư thế độc lập và tự chủ thì phải tìm đến chốn đất rộng, thoáng như thành Đại La để thuận lợi cho việc thông thương, làm ăn của nhân dân. Nhà vua đã thấy thành Đại La “Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại hiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng và bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Rõ ràng, với sự phân tích của Lý Công Uẩn về thành Đại La, chúng ta thấy ở ông một khát vọng rất lớn lao về việc xây dựng một đất nước thật phồn thịnh, với đời sống nhân dân an cư lạc nghiệp, phát triển phong phú tốt tươi, ngày càng mở rộng vị thế đất nước và ổn định bền vững lâu dài. Đó là khát vọng tự cường của nhà vua và dân tộc Việt đang trên đà lớn mạnh và phát triển. Mong muốn xây dựng đất nước phồn vinh thịnh vượng là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước và tự hào về sức mạnh của dân tộc đang lên.

Nhưng trong quá trình tồn tại và phát triển, đất nước ta luôn bị giặc ngoại xâm nhòm ngó. Giặc phương Bắc hết triều đại này đến triều đại khác tìm cách xâm lược và đặt ách thống trị lên nhân dân ta. Trong hoàn cảnh đó, lòng yêu nước được biểu hiện dưới một sắc thái khác, đó là tinh thần căm thù giặc và ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc thù bảo vệ non sông. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn là tác phẩm thể hiện sâu sắc điều đó. Bài hịch là sự biểu hiện thống thiết của một nỗi căm thù sục sôi chất chứa trong lòng vị chỉ huy cao nhất quân đội nhà Trần trước sự ngạo mạn, tham lam tàn độc của quân giặc. Ông vạch ra cho tướng sĩ thấy những tội ác của kẻ thù làm ông nhức nhối: “Sứ giặc đi nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham khôn cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi tai vạ về sau!”. Nhìn cảnh tượng đó, Trần Quốc Tuấn ôm lòng căm hận sục sôi “Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, ngàn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Bằng hình ảnh sống động, cụ thể gây ấn tượng mạnh mẽ, ngôn từ thống thiết, nhịp điệu dồn nén, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện được hết độ mãnh liệt trong nỗi căm thù giặc nên Trần Quốc Tuấn lo lắng khôn nguôi khi nhìn cảnh tướng sĩ dưới quyền chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, không màng đến nguy cơ mà dân tộc sắp sửa phải đối mặt. Ông phê phán thói bàng quan ấy của tướng sĩ, chỉ ra cho họ thấy những tai họa sắp tới và hướng cho họ con đường học tập binh thư, chuẩn bị tất cả cho việc xả thân vì đất nước, Lời dặn dò tướng sĩ của ông thật ắp đầy ý chí tiêu diệt quân thù. Ông mong muốn được “bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai” để trừ mối họa cho giang sơn. Tinh thần cảnh giác, cái nhìn sáng suốt cũng như sự chuẩn bị kĩ càng cho cuộc đối mặt với kẻ thù cho thấy ý chí bảo vệ đất nước cao độ của vị đại tướng quân cũng như hào khí của cả dân tộc trong lúc giang sơn đứng trước thử thách ngoại xâm ở thời đại nhà Trần. Như vậy, lòng căm thù và tinh thần chống giặc cứu nước chính là một biểu hiện của tình yêu nước toát lên từ “Hịch tướng sĩ văn”.

Tuy nhiên, tinh thần cao đẹp ấy không tập trung cao độ bằng trong áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Truyền thống của tất cả các thời đại đi trước hòa quyện cùng không khí tráng ca của thời kì vừa chiến thắng giặc Minh khiến Nguyễn Trãi viết lên một áng văn hào sảng vô tiền khoáng hậu về tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc. Bài cáo được Nguyễn Trãi viết ra nhằm thay Lê Lợi thông báo cho toàn dân được biết công cuộc kháng Minh suốt 15 năm gian khổ của nghĩa quân Lam Sơn đã giành được thắng lợi, non sông sạch bóng quân thù và đất nước hoàn toàn độc lập, một thời kì thái bình thịnh trị mở ra cho toàn dân tộc ta. Vậy nhưng, trong phần mở đầu của áng văn, Nguyễn Trãi đã dành thật nhiều câu chữ để thể hiện niềm tự hào dân tộc sâu sắc của mình:

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Các triều đại Trung Hoa phương Bắc bao phen xuống xâm lược nước ta vì chúng chỉ coi nước ta như quận, huyện. Chúng không thừa nhận nước ta có một nền văn hóa riêng nên thường tùy cơ nô dịch. Nguyễn Trãi trong phần mở đầu bài cáo đã khẳng định một cách hùng hồn về nền văn hiến dân tộc, một nền văn hiến được xây dựng “đã lâu” qua bao thời đại với văn hóa và con người, điển chương chế độ, phong tục tập quán... Bên cạnh đó là quyền độc lập lãnh thổ. Nước ta có bờ cõi riêng do trời phân định không thuộc đất Trung Hoa nên không có lý do gì quân giặc có quyền xâm phạm. Lời khẳng định ấy cũng giống như lời Lý Thường Kiệt đã nêu cao trong “bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên” của dân tộc là bài “Sông núi nước Nam”:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời.

Điểm đặc biệt và cũng là nổi bật hơn hẳn của “Bình Ngô đại cáo” so với các áng văn của thời đại trước trong việc khẳng định chủ quyền dân tộc là ở chỗ Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại nước ta trong thế ngang hàng với các triều đại Trung Quốc. Phép đối chỉnh ấy mang đến tư thế hiên ngang cho dân tộc trong sự đối trọng với các vương triều phương Bắc.

Ông đã dùng từ đế để gọi vua nước Nam ta chứ không dùng từ vương. Bởi vương chỉ làm vua của một quốc, còn đế là vua của cả thiên hạ. Vua nước ta cũng có thiên hạ như các hoàng đế Trung Hoa. Chúng ta không phải nước chư hầu mà là một quốc gia độc lập. Một quốc gia có những lúc thịnh suy nhưng không thiếu anh hùng hào kiệt. Không những vậy, Nguyễn Trãi còn hết sức tự hào với truyền thống vẻ vang bao lần đánh bại quân thù của các bậc tiền nhân thuở trước khi gợi nhắc đến những chiến công lưu danh muôn thuở của cha ông mình:

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất thế

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Đoạn mở đầu với những lời khẳng định hùng hồn về quyền độc lập dân tộc đã cho thấy niềm tự hào sâu sắc của Nguyễn Trãi đối với truyền thống của quốc gia mình.

Không chỉ có vậy, “Bình Ngô đại cáo” còn là áng văn chan chứa lòng yêu nước thương dân của người anh hùng dân tộc. Lòng yêu nước ấy thể hiện ở nỗi đau và sự thương xót nhân dân lầm than, là nỗi căm hờn trước những tội ác tày trời của giặc. Bài cáo có rất nhiều hình tượng khắc họa tình cảnh đau thương của nhân dân và tội ác của giặc đầy sức ám ảnh:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Từ niềm thương xót và nỗi căm hờn ấy, bài cáo thể hiện ý chí quyết chiến và quyết thắng của nghĩa quân Lam Sơn chống lại kẻ thù, tái hiện những gian nan của cuộc chiến, đi từ khó khăn đến thắng lợi từng phần rồi hoàn toàn thắng lợi. Khi đánh đuổi được hết giặc thù ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Trãi trong khúc ca khải hoàn chiến thắng đã thể hiện niềm tin và khát vọng về tương lai thái bình thịnh trị, bền vững lâu dài của đất nước:

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Kiền khôn bĩ mà lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu

Muôn thủa nền thái bình vững chắc.

Tất cả những điều ấy là sự thể hiện đỉnh cao nhất niềm tự hào dân tộc và lòng yêu nước trong “Bình Ngô đại cáo”.

“Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ” và “Bình Ngô đại cáo” ra đời trong ba thời kì khác nhau, từ thủa đất nước mới xây nền thái bình thịnh trị cho đến những giai đoạn đầy cam go thử thách chống giặc ngoại xâm. Trong mỗi thời kì, dù được biểu hiện dưới những sắc thái khác nhau nhưng tinh thần dân tộc và lòng yêu nước vẫn thấm nhuần và ngời sáng qua các áng văn lưu truyền thiên cổ của dân tộc, làm nên một truyền thống nổi bật của văn chương Việt Nam.

---/---

Trên đây là một số bài văn mẫu Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô mà Top lời giải đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

icon-date
Xuất bản : 29/05/2022 - Cập nhật : 29/05/2022