logo

Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ

icon_facebook

Để tìm hiểu sâu hơn về giá trị tác phẩm Vợ chồng A Phủ, mời các em tham khảo một số bài văn mẫu Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ sau đây. Hi vọng với các bài văn mẫu đặc sắc này các em sẽ có thêm tài liệu, cách triển khai để hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất!


Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Bài mẫu 1

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mà nhà văn Tô Hoài đã dành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Cô vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ bỏ tuổi thanh xuân, phải sống một cuộc sống bị đọa đày về cả thể xác lẫn tinh thần. Mị đã từng muốn tìm đến cái chết với nắm lá ngón trong tay nhưng Mị không thể chết. Nếu Mị chết, cha Mị sẽ khổ, sẽ không thể trả được món nợ cho nhà thống lí. Mị đành chấp nhận quay trở lại làm con dâu gạt nợ, sống kiếp đời nô lệ, tủi nhục, bất hạnh. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Sức sống tiềm tàng dưới tác động của bao yếu tố đã dần trỗi dậy mạnh mẽ. Những sợi dây thô bạo của A Sử lại một lần nữa dập tắt sức sống của Mị. Dù phải chịu đau đớn và kết cục ê chề nhưng đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về.

Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ

Mùa đông trên núi cao dài và lạnh, Mị chỉ có bếp lửa là người bạn duy nhất của mình. Mị có thói quen sưởi lửa hàng đêm dù rất nhiều lần thằng A Sử nó về nhìn thấy Mị sưởi lửa nó đã đạp Mị ngả dụi xuống đất. Nhưng Mị không bỏ được. Bếp lửa đối với người con gái này không chỉ là công cụ sưởi ấm mà quan trọng hơn đó còn là người bạn sưởi ấm tâm hồn của Mị trong những năm tháng đầy chai sạn này, mà theo cách lí giải của tác giả Tô Hoài, ấy chính là phần vô thức của con người: “Ngọn lửa là hình ảnh có tính chất tượng trưng, nó ở trong sự vô vọng của cuộc đời Mị, dù rất mơ hồ nhưng nó níu kéo không để sự vô vọng lùa đi đến tuyệt cùng”. Đêm hôm đó, cũng nhờ bếp lửa, Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ - Chàng trai gạt nợ cho nhà thống lý có thể ngày mai, ngày kia sẽ chết.

Chỉ vì mải bẫy nhím để hổ vồ mất bò, A Phủ phải chịu cảnh trói đứng nghiệt ngã. Nhưng ban đầu, khi đối diện với một con người đang đứng trên bờ vực cái chết là A Phủ ấy, “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Mị còn tự nghĩ A Phủ nếu là “cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Mị hoàn toàn vô cảm, thờ ơ trước cảnh A Phủ bị trói. Đây cũng là một diễn biến tâm lí bình thường, hợp lí. Nó hợp lí là bởi Mị đã ở lâu trong khổ đau, đã chịu bao đày đọa về thể xác và tinh thần. Cái cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra đã làm bào mòn đi tâm hồn Mị. Mị đã bị tê liệt đi mọi cảm xúc, ý thức, nhận thức, Mị trở nên vô cảm, thờ ơ với nỗi đau của chính mình và cả nỗi đau của người khác. Hơn thế nữa, cảnh trói người, đánh người cũng chẳng còn là xa lạ ở nhà thống lí Pá Tra. Nó diễn ra một cách thường xuyên, hằng ngày, hằng giờ. Cuộc sống của những con người ở nhà thống lí đầy cơ cực, đắng cay và đày đọa. Chính vì vậy họ chẳng còn có thể đồng cảm, quan tâm đến nỗi đau của người khác.

Như vậy hoàn cảnh nghiệt ngã của đồng loại cũng chẳng còn lay động được tâm hồn Mị nữa rồi. Có lẽ phải cần thêm một tác nhân nữa. Và đó chính là dòng nước mắt của A Phủ. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. Quả thật “Khi tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu lệ”. Mị hiểu cảm giác bị trói đứng đến chết “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, bởi Mị đã từng bị A Sử trói như vậy. Ở đoạn văn này, tác giả không hề đề cập đến nỗi đau về thể xác của Mị, cũng không hề viết về nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả đều hiện lên thật rõ. Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính những cảm xúc xuất phát từ nỗi đau của mình. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết trong căn nhà này. Lần đầu tiên, Mị nhận thức được tội ác của cha con thống lí một cách cặn kẽ: “Chúng nó thật độc ác!” – điều mà từ trước đến nay, ngay cả khi bị trói không cựa được Mị cũng chưa từng nghĩ. Đó là sự trỗi dậy ý thức về kẻ thù, căm ghét cái ác, cái tàn bạo. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Từ thương mình, tới thương người, Mị cảm thấy thương A Phủ: “cơ chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Trong Mị đã le lói để rồi xuất hiện thật rõ ý muốn phản kháng, ý muốn cứu người, rồi tất yếu sẽ dẫn đến hành động cắt dây trói đầy dũng cảm.

Một loạt nét tâm lí ấy đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Nhưng trước khi cắt: Mị băn khoăn “cha con thống lý sẽ đổ cho Mị cởi trói, Mị sẽ bị trói thay vào đấy...”, rất có thể Mị sẽ phải chết thay A Phủ. Nhưng làm sao, “Mị cũng không thấy sợ”, lòng thương người trong Mị đã lớn hơn cả sự sợ hãi. Mị rón rén bước lại gần A Phủ, rút con dao nhỏ, cắt nút dây mây. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Trong Mị giờ đây không chỉ tiềm tàng ý thức muốn phản kháng cái ác mà mạnh mẽ hơn đó là sự thôi thúc của tình thương, của lòng trắc ẩn đã trỗi dậy. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “Đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. Đó là mệnh lệnh đối với A Phủ đồng thời là một lời kiên quyết đối với tâm hồn mình. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Bởi theo tập tục của dân tộc của Mị, đã cúng trình ma rồi thì dù chết cũng phải chết ở nhà đó, nếu chạy trốn cùng A Phủ thì Mị không đơn giản chỉ là giải thoát cho mình mà còn là làm trái với tập tục, với truyền thống. Đây chẳng còn là chuyện về ý chí nữa mà còn là chuyện về tâm linh, ý niệm.

Nhưng cận kề nhất với Mị sẽ là cái chết, chắc chắn là chết, nếu Mị ở lại. Đồng thời cái hình ảnh của A Phủ “quật sức vùng lên” tác động mạnh vào Mị. Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi cũng vụt chạy ra. “Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Nghĩa là phía trước mọi cái vẫn tối tăm và bất định lắm, nhưng đó là sự bất định chưa rõ, còn cụ thể ngay giờ đây là cái chết. Trong tình huống đó, cả A Phủ và Mị không thể có con đường nào khác là chạy đi. Bước chân của Mị như đạp đổ chế độ cường quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị gọi với theo: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là khao khát sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị. Câu nói ấy khi cất lên đã làm quặn đau trái tim độc giả, truyền đến độc giả sự cảm nhận rõ nhất về biết bao khổ cực Mị đã phải gánh chịu, cùng với đó là sự phục sinh mạnh mẽ hơn tất thảy của niềm khao khát sống trong Mị. Kể từ đây, những áp chế về cường quyền, bạo quyền và thần quyền đều ở lại. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến, chỉ biết rằng phải cật lực chạy thoát khỏi địa ngục trần gian này.

Hành động cắt dây cởi trói cứu A Phủ chính là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Mị. Từ thân phận nô lệ, Mị làm chủ cuộc đời mình. Từ sức sống tiềm tàng, âm ỉ đã phát triển thành sức mạnh giải phóng để thay đổi cuộc đời. Nhà văn Tô Hoài đã thật tinh tế khi sử dụng nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, cách dựng cảnh sinh động, cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ, thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị đã đưa ta đến chốn Hồng Ngài đầy dẫy đau thương nhưng vẫn sáng lên khao khát sống mãnh liệt của con người. Từ hành động cứu người của Mị, chúng ta nhớ đến sự việc giải cứu linh hồn quỷ dữ làng Vũ Đại của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. Chỉ với việc đem cho Chí bát cháo hành mà Thị Nở đã làm thay đổi suy nghĩ và tâm tính của một con người triền miên trong cơn say và tội lỗi. Phải chăng “tình thương là một thứ năng lượng kì diệu mà bản thân nó có thể tạo ra những phép lạ”. Hay như sức sống mãnh liệt của những con người đang trên bờ vực chết vì đói trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, sau cùng họ vẫn hướng về ánh sáng của no ấm, tự do, hạnh phúc. Tiềm ẩn trong mỗi con người vẫn luôn là khát vọng sống lớn lao mà không một khó khăn, không một cường quyền, bạo quyền nào có thể vùi dập hoàn toàn.

Một loạt câu văn ngắn, nhiều động từ đã được Tô Hoài sử dụng tạo nên tình huống hành động, giàu kịch tính cho đoạn trích. Khác với những sự kiện ở đoạn trước, tâm lí của Mị được thể hiện chủ yếu qua ngôn ngữ độc thoại. Trong sự kiện cuối cùng mang tính chất cao trào này, nhà văn vừa sử dụng ngôn ngữ độc thoại, vừa xen kẽ những lời thoại ngắn nhằm tạo độ nén, độ căng cho tác phẩm. Từ đó nhà văn khẳng định sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Nhà văn đã rất cảm thông và xót thương cho số phận tủi cực, không lối thoát của đồng bào bị áp bức như Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời, tác giả Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: “Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh’’, để chống lại áp bức, con người có thể dũng cảm vùng lên mạnh mẽ, dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.

Truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp độc giả cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp chúng ta ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

Xem thêm:

>>> Phân tích nhân vật mị trước khi về làm dâu


Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Bài mẫu 2

     Để tạo nên một truyện ngắn xuất sắc, mỗi nhà văn lại lựa chọn cho mình những yếu tố then chốt riêng, người chọn tô điểm cho tình huống, người chọn nhấn mạnh cốt truyện và cũng có nhiều người dành tâm sức mình chú trọng xây dựng những nhân vật điển hình, góp phần tạo nên những tác phẩm để đời. Tô Hoài trong “Vợ chồng A Phủ” đã xây dựng thành công hình tượng Mị và A Phủ. Từ việc phân tích diễn biến tâm lý, hành động Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ, nhà văn đã gửi gắm những cái nhìn nhân đạo mới mẻ của mình tới người đọc.

     Nền văn học Việt Nam trước cách mạng và sau cách mạng của Việt Nam ta từ trước tới nay, có thể nói một trong những đề tài phổ biến nhất chính là đề tài người nông dân cùng khổ dưới chế độ thực dân phong kiến. Ví như Nam Cao với Lão Hạc, Chí Phèo, Nguyễn Công Hoan với Tinh thần thể dục 1, 2, Kim Lân với Làng, Vợ nhặt, Ngô Tất Tố với Tắt đèn,... Thế nhưng đến với Tô Hoài người ta lại nhìn ra một màu sắc khác ở đề tài vốn xưa cũ này, ấy là số phận của những con người trên rẻo cao Tây Bắc dưới sự thống trị của thần quyền và cường quyền, mà cụ thể đó là hình tượng người phụ nữ. Mị là một cô gái con nhà nông dân có món nợ truyền kiếp với nhà thống lý Pá Tra từ đời cha mẹ Mị, rồi cuối cùng cô phải chịu làm vợ lẽ cho con trai của nhà đó là A Sử. Mang tiếng làm vợ cho nhà giàu có nhất vùng thế nhưng cuộc đời của cô lại là một chuỗi ngày bi kịch và khổ đau. Mị không có hạnh phúc, Mị phải sống những tháng ngày như địa ngục, Mị muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi, thế nhưng Mị lại không thể chết, bởi cô chết rồi món nợ của cha ai sẽ trả. Đến khi cha Mị đã mất thì Mị lại không còn thiết tha đến việc chết nữa bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Mị sống dưới danh phận con dâu gán nợ nhưng thực tế là làm nô lệ suốt kiếp cho nhà thống lý Pá Tra, phải làm lụng quanh năm suốt tháng quần quật không ngày nghỉ ngơi. Đến độ Mị cảm thấy mình không còn là con người nữa bởi “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”, đắng cay đến cùng cực. Cuộc đời của Mị lầm lũi giống như con rùa trong xó cửa, im lặng và tù túng, trơ lì trong lớp mái dày vô tri vô giác, không thiết tha đếm xỉa gì cuộc đời này nữa.

     Cứ ngỡ rằng cái tâm hồn vốn chai sạn vì cái khổ ấy đã chết hẳn, thế nhưng cuộc đời của Mị lại lần nữa được sống lại, sống lại những cảm xúc của một người con gái đang độ xuân sắc, xinh đẹp và có tài thổi sáo. Đêm tình mùa xuân ấy, Mị nghe thấy tiếng sáo thổi của ai đang gọi bạn, đã làm sống dậy trong lòng Mị những ký ức xa xăm thuở Mị còn là con gái, với tiếng sáo say lòng người “có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác”. Tiếng sáo lảnh lót mùi mẫn văng vẳng trong đêm tối, khiến Mị thấy thổn thức, rồi Mị khóc, nước mắt Mị ứa ra từng hàng, chẳng biết đã từ bao lâu rồi Mị không khóc như vậy. Mị xót xa, Mị ấm ức, tức tưởi cho cái cuộc đời đầy rẫy bất hạnh của mình, Mị thấy đắng cay, thấy tức giận, Mị muốn vùng lên phản kháng, Mị không muốn sống cái kiếp người như cỗ máy làm lụng biết nói này thêm ngày nào nữa. Mị muốn được sống như một con người, biết đớn đau, biết mệt mỏi, cũng được yêu thương, được có niềm vui như bao con người ngoài kia. Điều ấy chứng tỏ điều gì? Chứng tỏ rằng tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã sống lại, nồng nàn, mãnh liệt bởi tiếng sáo - âm thanh sự sống, đã thức tỉnh tâm hồn và trái tim vốn còn tươi đẹp và khao khát cuộc đời của Mị sau những tháng năm bị chôn vùi, chai sạn bởi cái khổ, cái đắng cay. Mị bắt đầu vùng lên, Mị làm việc mà từ khi về làm dâu Mị không dám làm, không được làm, Mị uống rượu “ừng ực từng bát”, uống như chưa từng được uống bao giờ, uống đến say khướt, rồi lấy lá làm kèn để thổi, để quay về những tháng ngày xa xăm, những ngày tháng hạnh phúc nhất cuộc đời Mị. Thế rồi, vài chum rượu, với tiếng kèn lá làm sao có thể bù đắp được cái thiếu hụt trong lòng Mị bao năm qua, cái nỗi khao khát sự sống mãnh liệt trong lòng của Mị. Mị muốn đi chơi, Mị muốn mặc quần áo đẹp, muốn thổi sáo, nhảy múa, bởi Mị nhận thức được một cách rất rõ ràng rằng “Mị vẫn còn trẻ”, Mị không muốn chôn vùi thanh xuân của Mình trong căn buồng chỉ có một ô cửa sổ bé bằng bàn tay như nhà tù ấy. Mị muốn sống như một con người đàng hoàng, thế nhưng thật xót xa, thật đắng cay tủi nhục, giữa lúc niềm khao khát sống mãnh liệt, lòng yêu cuộc đời của Mị đang phơi phới. Thì A Sử như một kẻ sát nhân, hắn muốn giết chết tâm hồn Mị một lần nữa, nó không muốn Mị được làm người, được vui sống, nó trói Mị vào cột nhà bằng cả rổ dây gai, rồi bỏ đi chơi, để lại Mị với nỗi tủi hờn, đớn đau cùng cực. Rồi Mị nhớ đến việc nhà này đã từng có một người đàn bà bị trói đến chết, Mị bàng hoàng, sợ hãi, chưa lúc nào Mị lại khao khát sự sống như lúc này “Mị sợ quá, Mị cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt”. Cái nỗi sợ, cái đau đớn xác thịt ấy chứng minh rằng Mị vẫn còn sống, cả tâm hồn lẫn thể xác, cái ý chí sống còn trong lòng Mị đã mạnh mẽ trở lại, không còn chai lì, lầm lũi nữa. Nó đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị, từ việc muốn ăn lá ngón để chết quách đi cho đến việc sợ hãi cái chết và khao khát được sống sót một cách mãnh liệt. Là tiền đề để Mị giải cứu A Phủ và chính cuộc đời mình ra khỏi đống bế tắc và áp bức của cường quyền và thần quyền.

     Khi đối diện với A Phủ một chàng trai bị đánh, bị trói đứng giữa sân ngay gần đống lửa Mị vẫn thường hay sưởi ấm, nhưng Mị “vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi”. Nhưng có lẽ ít ai biết được bên ngoài cái vẻ thờ ơ, mặc kệ sống chết ấy, trong lòng Mị đã có những thay đổi lớn, Mị đã không còn là người đàn bà lầm lũi, trơ lì với cái khổ, cái đớn đau thể xác tinh thần bắt đầu từ đêm tình mùa xuân ấy, từ khi Mị nghe thấy tiếng sáo cất lên, khi Mị thấy đau đớn, thấy sợ cái chết. Mị đồng cảm và xót thương cho số phận của A Phủ như chính cuộc đời mình, những con người không có quyền quyết định số phận cuộc đời, để biết mặc cho người ta chà đạp áp bức, rồi chết đi trong tay của bè lũ thống trị tàn ác. Đặc biệt khi mị trông thấy giọt nước mắt của người đàn ông ấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”, Mị lại nhớ đến cuộc đời đầy vết sẹo của mình, Mị phẫn nộ, Mị căm tức nhà thống lý Pá Tra, những kẻ độc ác, chúng nó bắt “người ta chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị thấy xót xa, Mị thấy thương cảm cho A Phủ, bởi Mị đã là dâu con, chết ở đây cũng dành, còn A Phủ có tội gì mà phải chịu cảnh như Mị. Mị càng nghĩ lại càng thấy không cam lòng, thấy đau đớn thay cho một kiếp người. Và có lẽ rằng giọt nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt của một con người vô tội, một con người khao khát sự sống, tựa như giọt nước tràn ly đã thôi thúc sự phản kháng, lòng trắc ẩn trong tâm hồn Mị. Mị đâu phải lũ người độc ác kia, Mị không chai lì và tàn nhẫn như thế, Mị phải cứu người đàn ông này, A Phủ xứng đáng được sống một cuộc đời tốt đẹp chứ không phải là chết ở đây vì làm mất một con bò. Lúc này đây Mị không còn sợ nữa, không sợ cường quyền, thần quyền gì nữa, Mị trở nên mạnh mẽ, như một người hùng cắt dây trói cho A Phủ, Mị bất chấp tính mạng mình để anh được sống, bởi Mị nhìn thấy ở chàng trai ấy chính là cuộc đời bất hạnh của Mị. Cứu A Phủ cũng là cứu chính tâm hồn, cứu cuộc đời của Mị. Cảnh cuối có lẽ Mị đã thông suốt, Mị đã thật sự phản kháng, Mị vùng dậy chống lại số phận, Mị muốn làm chủ số phận của mình, Mị quyết định bỏ trốn theo A Phủ, bởi Mị biết rằng ở lại nếu không chết về thể xác, thì cũng là cái chết về tâm hồn, đều đớn đau và tủi nhục vô cùng. Chỉ có cách thoát khỏi nơi quỷ quái ấy thì Mị mới có thể được sống sống thật sự, được làm một con người thật sự. Đây chính là biểu hiện rõ nét nhất về khao khát được sống, niềm ham sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị, một con người vốn tưởng tâm hồn đã trơ lì như gỗ đá. Đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, dẫu có bị cái khổ, cái tuyệt vọng, sự tàn ác của tầng lớp thống trị chà đạp đến gần như chỉ còn một tàn than đỏ, thì chỉ còn một ngọn gió xuân, một tiếng sáo, một niềm thương cảm cho kiếp người đồng cảnh ngộ nó cũng có thể bùng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết.

      Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.


Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Bài mẫu 3

Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như “ O chuột”, “Dế mèn phưu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”… Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.

Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ “ chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.

Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.

Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.

Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị.

Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi.

Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò!

Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư?

Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng…

Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…

Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.

Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

icon-date
Xuất bản : 14/05/2022 - Cập nhật : 23/05/2024

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads