logo

Phân tích khổ 3 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác

Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích khổ 3 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác. Với những bài văn mẫu ngắn gọn, chi tiết, hay nhất dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 


Phân tích khổ 3 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác - Bài mẫu 1

     “Bác đã đi rồi sao Bác ơi

       Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”

                                                   (Tố Hữu)

Bác đã ra đi, đi thật xa. Nhưng trong lòng mỗi người dân Việt, hình ảnh Bác vẫn luôn còn mãi trong trái tim mỗi người dân Việt. Viễn Phương cũng vậy, trong ngày hoàn thành lăng Bác, ông đã ra thăm trong vô vàn cảm xúc. Tác phẩm Viếng lăng Bác như là kết lắng cảm xúc của ông đối với Bác qua một bài thơ thiết tha, thành kính. Và trong tác phẩm, ta bắt gặp được xúc động của tác giả ở hai đoan thơ :

               “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

                 Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

                 Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

                 Mà sao nghe nhói ở trong tim

 

                 Mai về miền Nam thương trào nước mắt

                 Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

                 Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

                 Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này ”

Niềm xúc động  thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau là dòng cảm xúc chi phối toàn bộ ý thơ, hình ảnh thơ. Cứ thế Viễn Phương vẫn luôn cho nó tuôn trào trong từng ngọn bút :

              “ Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

                 Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

   Hai câu thơ giản dị như giàu sức gợi. Bác nằm đó thanh thản, bình yên giữa một vầng trăng êm ả, thanh bình. Hình ảnh vầng trăng xuất hiện trong khổ thơ mới đẹp và giàu cảm xúc làm sao ! Bên Bác, trăng vẫn tỏa ánh sáng huyền diệu, vẫn đẹp hiền hòa như những ngày cúng Bác sống đôi trong cuộc hành trình cho dân, cho nước. Có phải chăng, trăng và Bác như đôi bạn tri kỉ ? Tất cả như đang hòa chung làm một :

              “ Ngục trung vô tửu 

                 ……….. khán thi gia”

   Có lẽ chính sự bình yên ấy đã làm Viễn Phương quên đi thực tại đau lòng. Người chỉ thiếp đi một giấc ngủ dài sau những đêm không ngủ vì canh cánh độc lập tự do cho dân tộc. Một lần nữa hình ảnh và âm hưởng thơ lại làm cho tứ thơ lắng xuống. Ta có cảm giác đoàn người đang bước vào thật khẽ, thật êm để giữ giấc ngủ cho Người. Ngỡ như, một thanh âm dù rất nhỏ nhưng cũng đủ để phá tan sự thanh tĩnh thiêng liêng ấy. Và có lẽ cũng chính vì sự dồn nén cảm xúc dữ dội ấy mà nhà thơ càng thấm thía nỗi mất mát lớn lao :

             “ Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

                Mà sao nghe nhói ở trong tim “

  “ Bác sống như trời đất của ta “ (Tố Hữu). Người đã hóa thân vào thiên nhiên đất nước. Người là mặt trời rực rỡ ấm áp mỗi ngày. Người là vầng trăng thanh bình thâu sáng đêm đêm. Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước như trời xanh còn mãi trên đầu. Vẫn biết thế, vẫn tin và muốn tin như thế nhưng vẫn không tránh khỏi đau xót vì sự mất mát không gì bù đắp đc. Câu thơ đọc lên tưởng chừng như thắt lại vì đau :

             “ Mà sao nghe nhói ở trong tim “

   Không kiềm chế dòng xúc cảm được nữa, Viễn Phương đành phải thốt thành lời. Từ “nhói” đứng ở giữa câu thơ làm cả khổ thơ xốn xang, đau đớn. Nhà thơ đã biểu lộ thật nhất trạng thái cảm xúc của mình. Nỗi đau chợt nhận ra au những yên bình bao giờ cũng nhức buốt hơn là thế. Cũng như Tố Hữu sau những lời an ủi, vỗ về :

            “ Con cá rô ơi chớ có buồn

               Chiều chiều Bác vẫn gọi rô luôn

               Dừa ơi cứ nở hoa đơm trái

               Bác vẫn chăm tay tưới ướt bồn. ”

                                                        (Tố Hữu)

            Và cũng là niềm đau khi trực diện với thực tại : 

           “ Trái bưởi kia vàng ngọt với ai,

              Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài,

              Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm,

              Quanh mặt hồ yên mây trắng bay ? “

    Vậy nên khi chợt nghĩ đến ngày mai trở về miền Nam, xa Bác, Viễn Phương đã bộc lộ những ước muốn chân thành, da diết, cháy bỏng :

                 “Mai về miền Nam thương trào nước mắt

                 Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

                 Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

    Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này ”    Nhịp điệu khổ thơ cuối dồn dập với điệp từ “muốn làm” nhắc lại đến ba lần cùng các hình ảnh liên tiếp “con chi, đóa hoa, cây tre” đã thể hiện thật cụ thể mà sâu sắc nỗi lòng của nhà thơ với Bác. Những ước nguyện thật bình dị mà xúc động dâng trào. Biết bao lưu luyến, buồn thương. Nhà thơ muốn hóa thân làm “con chim hót”, làm “đóa hoa tỏa hương”, làm “cây tre trung hiếu” để được đền ơn đáp nghĩa cho Người. Ý thơ sâu lắng, hình ảnh thơ đẹp và độc đáo , cách biểu hiện cảm xúc “rất Nam Bộ”. Phải chăng trong ước vọng hóa thân ấy, nhà thơ muốn mình đc trở thành những giá trị tinh thần đẹp nhất của Bác ? Hơn nữa, chính điều đó cũng cho thấy tác giả hiểu Bác biết bao. Sinh thời, Người đã từng rất yêu và gắn bó với thiên nhiên . Người sống với thiên nhiên chan hòa, bầu bạn với thiên nhiên ấy :

          “ Xem sách, chim rừng vào cửa đậu

             Phê văn, hoa núi ghé nghiêng soi .”

    Nên giờ đây, nhà thơ muốn tự mình góp thêm sắc hương vào khu vườn trong niềm say mê của Bác. Chắc chắn ước nguyện của nhà thơ sẽ được Bác đồng lòng với những ước nguyện thật cao cả. Hình ảnh cây tre trung hiếu trong khổ thơ cuối ngoài ý nghĩa biểu tượng còn bao hàm cả lời hứa sắc son của chính nhà thơ : sẽ mãi mãi trung thành với lý tưởng của Người, mãi mãi trung thành với con đường Bác đã đi và giành thắng lợi.

   Đoạn trích với các nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, là 1 minh chứng cho ước nguyện của tác giả,nó thật nhỏ nhẹ, giàu tình cảm và mơ mộng nhưng giàu suy tưởng. Chỉ với tám dòng thơ, ông đã nói hộ biết bao tấm lòng tình cảm của dân tôc Việt. Đoạn trích  xứng đáng là 1 tràng hoa đẹp dâng lên bảy mươi chín mùa xuân của Người.


Phân tích khổ 3 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác - Bài mẫu 2

                                           Bác đã đi rồi sao Bác ơi !

                                           Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời

                                           Miền Nam đang thắng mơ ngày hội

                                           Đón Bác vào thăm thấy Bác cười.

                                                                       (Tố Hữu, Bác ơi !)

    Ngày 2/9/1969, Bác Hồ kính yêu đã vĩnh viễn ra đi, để lại muôn nỗi tiếc thương cho bao người dân Việt Nam. Nhiều bài thơ khóc Bác được các nhà thơ viết nên với tất cả lòng thành kính, yêu thương. Bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương dù ra đời rất muộn, tháng 4 – 1976, nhưng vẫn tạo ấn tượng mạnh trong lòng người đọc bởi tình cảm sâu lắng nhưng mãnh liệt của một đứa con miền Nam lần đầu tiên được thấy Bác trong lăng. Nhận xét về bài thơ, sách giáo khoa Ngữ Văn 9 – NXBGD có viết : " Bài thơ có giọng điệu trang trọng, tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi  cảm. Ngôn ngữ bình dị mà cô đúc".  Qua việc tìm hiểu và phân tích hai khổ cuối của bài thơ, chúng ta sẽ làm sáng tỏ vấn đề này.

   Theo dòng người nối tiếp nhau vào trong lăng, niềm xúc cảm của nhà thơ chợt dâng trào và òa vỡ thành tiếng thổn thức khi nhìn thấy Bác :

                                         Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

                                         Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

    Cụm từ giấc ngủ bình yên là phép nói giảm nói tránh trong thơ. Tác giả không chỉ dừng lại ở việc giảm nhẹ sự đau buồn mất mát khi nói về cái chết mà còn miêu tả rất thực hình ảnh Bác trong lăng. Sự ra đi của Bác thanh thản và nhẹ nhàng như bước vào giấc ngủ an lành, tự tại. Giấc ngủ ấy chỉ có được ở những người có tâm hồn cao đẹp, biết sống vì hạnh phúc của mọi người. Khi ra đi, họ sẽ không vướng mang, ràng buộc, ung dung tự tại “Vào cuộc trường sinh nhẹ cánh bay ”. Bác Hồ chính là người như thế, cả cuộc đời Bác chỉ lo cho dân cho nước, cho hạnh phúc của muôn nhà :

                                           Bác để tình thương cho chúng con

                                           Một đời thanh bạch chẳng vàng son

                                           Mong manh áo vải hồn muôn trượng

                                           Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.

                                                                           (Tố Hữu, Bác ơi !)

    Bác nằm trong lăng, bao phủ quanh Bác là ánh sáng dịu dàng huyền ảo của ánh đèn. Trong cảm nhận của tác giả, đó là ánh sáng của vầng trăng tròn lung linh huyền diệu. Hình ảnh liên tưởng gợi ta nhớ đến cuộc đời hoạt động Cách mạng của Bác và sự gắn bó tri âm tri kỉ giữa Bác với trăng. Trong những tháng ngày bị tù đày trong nhà lao của chính quyền Tưởng Giới Thạch, ánh trăng không ngại ngùng xuyên qua sóng cửa vào tận chốn tăm tối của ngục tù để nhìn ngắm người tù cách mạng :

                                           Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

                                           Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ  

                                                                       (Hồ Chí Minh,Ngắm trăng)

      Bước vào cuộc kháng chiến trường kì, vầng trăng cũng theo Bác vào tận chiến khu Việt Bắc. Trăng tỏa ánh sáng bạc đầy thuyền trong một đêm xuân, làm cho cuộc kháng chiến đầy gian khổ ác liệt bỗng trở nên thi vị :

                                           Giữa dòng bàn bạc việc quân

                                           Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền

                                                                      (Hồ Chí Minh, Rằm tháng Giêng)

     Đẹp làm sao, lúc sinh thời Bác cùng trăng bầu bạn, đồng hành qua bao chặng đường Cách mạng. Giờ đây, đến khi Bác ra đi ánh trăng vàng cũng tiếp tục đồng hành đưa tiễn Người vào cõi hư vô.

Đến đây, bỗng nhà thơ cảm thấy trào dâng một niềm đau vô hạn :

                                           Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

                                           Mà sao nghe nhói ở trong tim

      Hình ảnh ẩn dụ trời xanh để chỉ Bác. Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, cũng như Bác luôn sống mãi trong lòng bao thế hệ người dân Việt Nam. Hai câu thơ xây dựng theo hình thức đối lập, giữa cái biết và cảm giácnhói trong tim. Biết là lí trí và nhói là cảm xúc. Lí trí vẫn luôn nhắc nhở nhà thơ rằng Bác vẫn sống trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng – Bác đã không còn. Hai sự việc đối lập trong cùng một thể thống nhất: tình cảm kính yêu đối với Bác.

      Trong bài thơ, tác giả Viễn Phương sử dụng hàng loạt các hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác và liên quan đến Bác : mặt trời rất đỏ, vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh. Những hình ảnh mang tầm vũ trụ kì vĩ như muốn nói lên một điều, Bác đã hóa thân vào vũ trụ vĩnh hằng, để sống mãi trong lòng dân tộc.

Rời lăng Bác, niềm xúc động thiêng liêng trào dâng mãnh liệt thành những vần thơ tha thiết yêu thương :

                                            Mai về miền Nam thương trào nước mắt

      “Mai về ”, một cách nói để chỉ khoảnh khắc thời gian ngắn ngủi, nhà thơ không còn ở bên Bác bao lâu nữa. Từ “thương ” đậm chất Nam Bộ  vang lên thể  hiện lòng biết ơn, là tình yêu, tấm lòng kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi niềm đau xót khi mất Bác. Những cảm xúc dồn nén bỗng tuôn trào thành niềm ước nguyện thiết tha thành kính :

                                            Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

                                            Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

                                            Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

   Điệp ngữ Muốn làm cùng nhịp thơ dồn dập vang lên như lời khẳng định khát vọng mãnh liệt của nhà thơ. Đó là mong muốn được hòa nhập, hóa thân vào những sự vật quanh lăng Bác, để được ở mãi bên Bác. Ước nguyện làm một con chim nhỏ cất tiếng hót vui say trong những sớm  bình minh bên lăng Bác, nguyện làm một đóa hoa tỏa hương thơm vấn vương không gian ở quanh lăng. Không phải tình cờ mà chúng ta bắt gặp sự trùng hợp đến lạ kì trong ước nguyện hóa thân của các nhà thơ. Trong Mùa xuân nho nhỏ, Thanh Hải cũng có cùng một khát khao dâng hiến như thế :

                                          Ta làm con chim hót

                                          Ta làm một cành hoa

    Nhà thơ Tố Hữu cũng thế :

                                           Nếu là con chim, chiếc lá

                                           Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh.

    Nguyện ước đơn sơ ấy xuất hiện cả trong những giai điệu của nhạc sĩ Trương Quốc Khánh :

                                           Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng

                                           Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương.

                                                                      (Tự nguyện)

    Nguyện làm con chim để cất cao tiếng hót cho đời thêm rộn rã âm thanh, nguyện làm một đóa hoa để khoe sắc tỏa hương thơm cho cuộc đời thêm tươi đẹp. Đó là những khát vọng chân thành và khiêm tốn mà các tác giả mong muốn được hiến dâng. Nguyện ước ấy thật đáng trân trọng biết bao.

     Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh hàng tre và kết thúc bằng cây tre trung hiếu. Lối kết cấu đầu cuối tương ứng trong thơ đã làm cho mạch thơ được xuyên suốt. Hàng tre là biểu tượng cho dân tộc, cây tre là biểu tượng cho cá nhân. Tác giả bày tỏ ước nguyện được thành một cây tre trung hiếu  đứng trong hàng quân danh dự canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác, muốn được sống xứng đáng với truyền thống dân tộc. Đặc biệt, xứng đáng với lời dạy của Bác Hồ : “Trung với Đảng – Hiếu với dân ”.

     Tóm lại, với những từ ngữ chân thành, giàu cảm xúc, nhiều hình ảnh ẩn dụ trang trọng cùng giọng thơ trang nghiêm thành kính, Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Tình cảm ấy cũng là một tiếng nói chung của đồng bào miền Nam, nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu của mình. Bài thơ Viếng lăng Bác được bao thế hệ bạn đọc nhắc mãi cũng vì lẽ đó.


Phân tích khổ 3 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác - Bài mẫu 3

“Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài văn xuất sắc được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình ghi lại tình cảm thành kính, sâu lắng của nhà thơ khi hòa vào dòng người đang vào viếng lăng Bác. Qua đó bài thơ được xem là tiếng nói nỗi niềm tâm sự của nhân dân dành cho Bác. Đặc biệt, những tình cảm ấy lại chan chứa và dạt dào ở hai khổ thơ 3 và 4.

Hai khổ 3 và 4 cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, réo rắt như tấm lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Hồ Chủ tịch. Bằng những ngôn từ ẩn dụ đặc sắc, từ ngữ bình dị mà giàu sức gợi, câu thơ đã khơi gợi trong lòng người đọc những rung động sâu sắc và đáng quý...

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà! Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình yên, Bác phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày, đến “cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên tiêu”…Tuy vậy, Bác chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì “trong tù không rựơu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên, nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật sự ra đi mãi mãi.

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!”

Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù lí trí vẫn luôn trấn an lòng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng. Một từ “nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lí lẽ, mọi lập luận lí trí. Bác như trời xanh, Bác là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời thường này. Mất Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được? Tổ quốc ta đã thật sự không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một cái gì đó thật vĩ đại, không thể xoá nhoà. Dù Bác ra đi thật sự rồi nhưng những điều Bác đã làm vẫn sẽ đọng lại trong tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn tồn tại trường kì trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.

Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xúc động:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim người. Một tiếng “thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác. Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt Nam, vô bờ bến và rất thật.

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre xanh xanh Việt Nam tỏa bóng mát dịu dàng quê hương của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính là nguyện ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để kết thùc, ngừng lặng hòan toàn…

Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết theo thể tám chữ, trong có có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể hiện cảm xúc thành kính của tác giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng thành kính với Bác. Giọng điêu của bài trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc.

Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất nước ta có hoà bình như ngày hôm nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, như vậy chúng ta cần phải biết xây dựng và bảo vệ tổ quốc.


Phân tích khổ 3 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác - Bài mẫu 4

Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mỹ cứu nước. Thơ Viễn Phương bình dị, đằm thắm mang đậm tính cahs Nam Bộ. Đến sau trong đề tài thơ về Bác do điều kiện, hoàn cảnh: là người con miền Nam, cầm súng ở ngoài tiền tuyến… nhà thơ Viễn Phương đã để lại bài thơ “Viếng lăng Bác” độc đáo, có sức cảm hóa sâu sắc bởi tình ý đẹp, bởi lời hay. Đặc biệt ở hai thơ cuối thể hiện sâu sắc và cảm động tinh thần kính yêu lãnh tụ và ý nguyện muốn được dâng hiến đời mình bồi đắp thêm cho vẻ đẹp của đất nước:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”.

Đã từ rất lâu, cũng như các chiến sĩ và đồng bào miền Nam xa xôi, Viễn Phương luôn khao khát được viếng thăm lăng Bác, được trở về với người cha già vĩ đại. Nhưng cuộc chiến kéo dài, kẻ thù còn ngoan cố nên đến sau ngày đất nước giải phóng, ông mới có dịp thực hiện ước nguyện ấy.

Tác giả đến với lăng Bác trong tâm trạng bùi ngùi, vừa cảm thương, tiếc nuối vì người đã ra đi mãi mãi vừa cảm thấy tự hào, thỏa nguyện vì đã được trở về với tinh thần vĩ đại của dân tộc, trở về với nguồn sức mạnh thiêng liêng. Bước vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!”.

Khổ thơ được bắt đầu với việc tả thực hình ảnh của Bác. Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận như Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Tất cả gợi nên một khung cảnh thiêng liêng, vô cùng thành kính. Sự tĩnh mịch đến phi thường, không âm thanh, chỉ có ánh sáng, đủ sức đưa con người đi vào tâm tưởng.

Cái ranh giới mỏng manh giữa sự hiện hữu và hư vô càng khiến cho không gian trở nên huyền ảo. Vầng trăng tỏa sáng lung linh quanh linh cữu của Người, cùng đồng hành với người trong thế giới siêu nhiên. Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác

Trăng đối với Bác thân thiết như người bạn, người đồng chí trên mọi nẻo đường. Trong thơ Bác, ngoài tình yêu nước sâu nặng, tình thương người tha thiết, người chiến sĩ yêu nước Hồ Chí Minh đã hướng tâm hồn mình vào thiên nhiên tạo hóa với bao tình yêu thương nồng hậu. Hình ảnh vầng trăng, biểu tượng của thiên nhiên rộng lớn và tươi đẹp luôn ăm ắp trong thơ Người lúc nhàn hạ, thảnh thơi:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.

(Cảnh khuya – Hồ Chí Minh)

Hay những lúc trên chiến trường, việc quân khẩn cấp, trăng cũng tìm đến với Người mời gọi, rủ rê:

“Trăng vào cửa sổ đòi thơ

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau”.

(Tin thắng trận – Hồ Chí Minh)

Ngay những lúc ngồi trong tù, trăng trở thành người bạn tâm tình, thấu hiểu và sẻ chia nỗi lòng của Bác:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

(Nhật kí trong tù – Hồ Chí Minh)

Rõ ràng dù trong bất kì hoàn cảnh nào, tình cảm Bác đối với vầng trăng vẫn luôn tha thiết. Và cũng chính ánh trăng đẹp cũng tăng thêm niềm tin, niềm lạc quan của Bác đối với nhiệm vụ cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc đầy cam go. Cho nên nghĩ về Bác, Viễn Phương hình dung những chiếc bóng đang tỏa sáng Bác như vầng trăng dịu hiền phủ chiếu, ấp ủ Bác chắc hẳn xuất phát tự hiện thực ấy.

Với niềm cảm xúc chất ngất, Viễn Phương lại liên tưởng Bác là: “trời xanh”. Trong toàn bài thơ “Viếng Lăng Bác”, đây lần thứ hai Viễn Phương đã vận dụng hình ảnh ẩn dụ ấy mới tài tình, mới chính xác. Bởi vì, trong thế giới tự nhiên bao la vô tận, “trời xanh” có khả năng bao trù vạn vật như muốn chở che, bảo vệ cho muôn vật, muôn loài. “Trời xanh” còn có công đem lại cho muôn loài ánh sáng và sức sống. Bác Hồ của chúng ta cũng vĩ đại như thế.

Cả cuộc đời Người, từ lúc còn là thanh niên trẻ cho đến khi da mồi tóc bạc, Bác hi sinh cả vì nền độc lập dân tộc Việt Nam thân yêu này. Biết bao năm bôn ba hải ngoại, biết bao lần gối tuyết nằm sương, bao phen bị giam cầm xiềng xích, Bác vẫn quyết định chịu đựng, vượt qua để ánh sáng cách mạng rọi soi khắp nhân dân, để đạp tan mọi gông cùm khổ ải cho non song Việt nam thống nhất mọi nhà. Cho nên việc nhà thơ ví Bác như “trời xanh” là thật đúng và mãi mãi đúng với dân tộc ta.

Tuy nhiên, khi đọc kĩ lại câu thơ: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”, ta nghe như có cái gì đó vừa chùng xuống, có gì làm nghèn ghẹn trong lòng ta. Cảm xúc ấy đã được chứng thực khi đọc đến câu thơ:

“Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Như vậy mặc dù dòng cảm xúc, sự liên tưởng của Viễn Phương đang thật dạt dào, phong phú, đang say sưa ngất với niềm sung sướng, từ hào niềm tôn kính dâng trào khi được ở bên Bác, thỏa tấm lòng “Miền nam mong Bác nỗi mong cha”

Thì giờ đây nhà thơ không thể trách khỏi một sự thật đau lòng, một sự thật mà nhân dân cả nước Việt nam phải chịu đựng trong ngày 2/9/1969:

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trơi tuôn mưa”

(Bác ơi! – Tố Hữu)

Cảm giác ấy bất chợt ập đến khiến nhà thơ nghe “nhói ở trong tim”. Động từ “nhói” mang đậm phong cách Nam Bộ. Đặt trong giọng thơ đầy sót xa, thương nhớ nghe gần gũi, chân thật đã miêu tả thật rõ nét cảm xúc đau đớn tột cùng của tác giả khi đứng trước hiện thực đau lòng: Bác đã ra đi mãi mãi. Và ý thơ ấy của Viễn Phương đã giúp ta hình dung hình ảnh nhà thơ đang đứng thật trang nghiêm, cúi đầu kính cẩn tưởng niệm Bác đã giành cho dân tộc thân yêu này bằng tấm lòng yêu thương, kính phục, tri ân thiết tha, sau thẳm.

Thương yêu Bác thật nhiều mà gần gũi chẳng được bao nhiêu nên phút giây chia tay thật bùi ngùi lưu luyến. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre chung hiếu chốn này”.

Vẫn với cách diễn đạt đậm chất Nam Bộ “thương trào nước mắt” cùng điệp ngữ: “muốn làm” vận dụng như một điệp khúc, lại được dồn đặt lên đầu ba câu thơ liên tiếp, các câu thơ đã trở thành đỉnh cao của mạch cảm xúc, giúp ông giúp chọn mọi tâm tư tình cảm yêu thương, kính phục dành cho Bác. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.

Chính vì yêu thương, kính phục, thấy xót xa, bịn rịn không nỡ rời đi, nhà thơ đã ước nguyện làm “con chim” yêu thương “hót quanh lăng”, muốn làm “đóa hoa tỏa hương” tỏa hương quanh lăng, muốn “làm cây tre” trung hiếu trọn đời yêu thương tôn kính vị cha già của nhân dân.

Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng.

Nếu ở khổ thơ đầu là một hàng tre như những tầng lớp nhân dân đang vây quần bên Bác, cùng Bác sống, cùng Bác đấu tranh để gìn giữ cho nền hòa bình, độc lập của dân tộc thì khổ thơ cuối chỉ là “cây tre” biểu trưng cho nhà thơ, cho nhân cách nhà thơ, cho ý chí kiên trung, bất khuất của đân tộc.

Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta đối với Bác.

Ngày nay, yêu kính, nhớ ơn Bác, toàn dân, toàn Đảng ra sức bồi đắp, xây dựng, phát triển đất nước. Riêng học sinh chúng em luôn tâm niệm lời nhắn nhủ của Bác “Non song Việt Nam có tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước đến đài vinh quang sánh vai với cường quốc năm châu được hay không chính nhờ phần lớn công học tập của các cháu” mà cố gắng chăm ngoan ra sức học tập, rèn luyện tốt nhân cách đạo đức, mai sau góp công sức nhỏ bé của mình vào việc xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước, đền đáp phần nào công lao vĩ đại của Bác.

Bằng những cảm xúc trào dâng, cách diễn đạt thật chân thật, tha thiết, với tư cái nhìn hình ảnh ẩn dụ đẹp đẽ, bài thơ “Viếng lăng Bác” nói chung các khổ thơ trên nói riêng và tình ác yêu thương, kính trọng của nhà thơ, cũng là của đồng bào cả nước đối với Bác.

Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ – biểu tượng vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.

---/---

Như vậy Top lời giải đã trình bày xong bài văn mẫu Phân tích khổ 3 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em học tốt môn Văn!

icon-date
Xuất bản : 05/04/2021 - Cập nhật : 06/04/2021