logo

Phân tích đoạn 1 2 Bình Ngô đại cáo

Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích đoạn 1 2 Bình Ngô đại cáo. Với những bài văn mẫu đặc sắc, chi tiết dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 


Phân tích đoạn 1 2 Bình Ngô đại cáo - Bài mẫu 1

   Mở đầu bài cáo, tác giả nêu lên một tư tưởng lớn làm nguyên lý cho toàn bài.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

    Đó là tư tưởng nhân nghĩa, nhưng không phải nhân nghĩa chung chung, mà gắn với mục đích “yên dân”, “trừ bạo”, mang nội dung yêu nước, thương dân. Nó đã được chứng minh bằng sự tồn tại của nước Đại Việt ta như một chân lí lịch sử:

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.

    Có đủ tất cả các yếu tố của một quốc gia độc lập tự chủ: quốc hiệu (tên nước), văn hiến, lãnh thổ, phong tục, con người và đặc biệt là “nền độc lập” đã được xây dựng từ bao đời.Những lời văn mạnh mẽ, dứt khoát, có ý khẳng định chắc chắn, Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách hùng hồn chủ quyền dân tộc. Nguyễn Trãi nêu bật lịch sử các triều đại bằng phép liệt kê, song hành, đã khẳng định lịch sử dài lâu của đất nước, đồng thời khẳng định tư thế độc lập ngang hàng của Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc

    Nó còn như khẳng định về hậu quả thất bại tất yếu của kẻ thù khi chúng xâm phạm đến độc lập chủ quyền của dân tộc ta:

Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

   Nguyễn Trãi đã cho ta thấy những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc. Cách nêu dẫn chứng rõ ràng cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào dân tộc.

   Nói về nước Đại Việt ta, cảm hứng của tác giả tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng tạo nên giọng điệu trang nghiêm, khẳng định khi nói về quốc gia độc lập, tự chủ: và đặc biệt nghệ thuật so sánh lại càng tôn cao và khẳng định thêm điều đó: Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần của Việt Nam ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Không có một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt thì cũng không thể có một sự so sánh như vậy.

   Đoạn 2 là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của quân xâm lược nhà Minh.Nguyễn Trãi đã lột trần âm mưu thâm độc của chúng: lợi dụng nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc minh đã thừa cơ vào cướp nước ta:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
…….
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.

    Tác giả khẳng định đó là tội ác “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những hành động tội ác man rợ của chúng. Nào là tàn sát, giết hại nhân dân kể cả các em nhỏ cũng không tha: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”.Rồi chúng lại bóc lột dân ta bằng thuế khóa nặng nề, ra sức vơ vét tài nguyên đất nước, đẩy người dân đến chỗ đường cùng, thậm chí tính mạng không được đảm bảo:

    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Còn dã man, tàn bạo đến mức:
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Nặng nề những nỗi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.

    Hậu quả bọn chúng để lại thật là tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá huỷ, tiêu diệt, sản xuất thì trì trệ, nhân dân khổ cực.

   Để nêu rõ tội ác của quân xâm lược, tác giả đã dùng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn giàu hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc.Lúc thì tỏ ra căm phẫn, tức giận đến thấu xương cái lũ xâm lược tàn bạo, lúc thì lại thể hiện sự xót xa, đau đớn cho nhân dân ta.

   Ở phần đầu bản cáo trạng là một hình ảnh đầy ấn tượng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, để rồi kết thúc bằng một hình ảnh có giá trị tổng kết cao: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội - Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa sạch mùi”. Và cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc, đanh thép của nhân dân ta về tội ác của chúng:

Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?

Phân tích đoạn 1 2 Bình Ngô đại cáo

Phân tích đoạn 1 2 Bình Ngô đại cáo - Bài mẫu 2

    Nguyễn Trãi là một vị quan nhưng đồng thời cũng là nhà văn, là danh nhân văn hóa lớn của dân tộc. Ông đã góp vào kho tàng văn học trung đại nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học có giá trị và “Bình Ngô đại cáo” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Bài cáo được xem là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc. Đặc biệt, qua đoạn thứ nhất và đoạn hai của bài cáo, người đọc sẽ thấy rõ được luận đề chính nghĩa của dân tộc ta cũng như tội ác man rợ của kẻ thù.

   Trước hết, đoạn trích mở đầu tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” đã nêu lên luận đề chính nghĩa và chân lí độc lập dân tộc, đó chính là nền tảng, là tiền cơ sở lý luận xuyên suốt cuộc kháng chiến của quân và dân ta.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

     Có thể thấy, “nhân nghĩa” từ xưa đến nay luôn là một phạm trù tư tưởng lớn của Nho giáo, nó thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Là một nhà nho, chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo nên nền tảng tư tưởng của Nguyễn Trãi cũng chính là tư tưởng “nhân nghĩa”. Với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” luôn gắn liền với việc “yên dân” và muốn “yên dân” thì phải trừ bạo để đem lại cho nhân dân cuộc sống ấm no, yên bình. Như vậy, có thể thấy, cốt lõi tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi chính là lấy dân làm gốc, làm nền tảng, vì cuộc sống yên ấm, hạnh phúc của nhân dân mà đánh đuổi bọn cường bạo.

  Thêm vào đó, tác giả còn nêu lên chân lí độc lập của dân tộc từ ngàn đời nay.

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.

    Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng tác giả Nguyễn Trãi đã gợi lên cả một chặng đường lịch sử ngàn năm văn hiến của dân tộc. Cũng như bao dân tộc, quốc gia khác, đất nước, dân tộc Đại Việt chúng ta từ ngàn đời nay có một nền văn hiến lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng và có phong tục, tập quán riêng của hai miền Nam Bắc. Dân tộc ấy đã trải qua các triều đại khác nhau, sánh vai cùng các triều đại phong kiến của phương Bắc. Và với việc đặt các triều đại của dân tộc ta sánh ngang hàng với các triều đại phong kiến Trung Quốc vừa là lời khẳng định nền độc lập, truyền thống của dân tộc vừa thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của tác giả. Thêm vào đó, để khẳng định chân lí độc lập của dân tộc, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo kể ra những chiến thắng vang dội, lẫy lừng của quân và dân ta trong lịch sử.

Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

     Trên cơ sở tiền đề lý luận đã được nêu ra, trong phần tiếp theo của bài cáo, tác giả đã soi chiếu lí luận ấy vào thực tiễn để vạch rõ những tội ác dã man của kẻ thù. Tội ác của bọn giặc trước hơn hết chính là ở việc lợi dụng tình hình rối ren ở trong nước để từ đó chúng lấy cớ và tiến vào xâm lược nước ta.

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.

   Không chỉ dừng lại ở đó, sau khi tiến vào xâm lược nước ta chúng còn thi hành hàng loạt chính sách phi nhân đạo, tàn nhẫn.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

     Bọn giặc thật tàn nhẫn, chúng giết hại dân lành bằng những hành động rất man rợ, đến cả “dân đen” - những người dân vô tội và cả những đứa trẻ thơ chúng cũng không tha. Bằng việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đặt động từ “nướng” và “vùi” lên đầu các câu thơ, dường như tác giả muốn nhấn mạnh thêm sự tàn nhẫn, độc ác của bọn giặc. Cùng với đó, bọn giặc còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy chúng vào những nơi chứa đầy những hiểm nguy, ở những nơi mà người ta biết khi đi sẽ khó lòng có thể trở về được nữa.

    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc

    Cùng với đó, tội ác của giặc còn ở chỗ chúng đã ra sức vơ vét của cải, thuế khóa vô lý và phá hoại môi trường, cảnh quan trên đất nước ta.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

    Và để rồi, tác giả đã khép lại đoạn hai của tác phẩm bằng hai câu thơ giàu hình ảnh và đầy sức ám ảnh về những tội ác mà bọn giặc Minh đã gây ra trên đất nước ta.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

    Tác giả Nguyễn Trãi đã dùng cái vô hạn, vô cùng của “trúc Nam Sơn” và “nước Đông Hải” để nói về tội ác của kẻ thù. Từ đó, người đọc có thể thấy được tội ác không gì có thể kể hết, có thể diễn tả được của kẻ thù. Và trước những hành động ấy của giặc Minh, nhân dân ta, dân tộc ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài con đường đứng lên để hành động.

Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?

   Tóm lại, với những hình ảnh thơ độc đáo cùng ngôn ngữ sắc sảo, giọng điệu linh hoạt, hai đoạn thơ mở đầu tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” không chỉ nêu lên cho người đọc thấy được luận đề chính nghĩa, chân lí độc lập của dân tộc ta mà qua đó người đọc còn thấy được những tội ác không thể nào tha thứ được của kẻ thù.


Phân tích đoạn 1 2 Bình Ngô đại cáo - Bài mẫu 3

    Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam, ba tác phẩm văn học có giá trị như những bản tuyên ngôn độc lập của đất nước. Đó là Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó, Bình Ngô đại cáo đã thể hiện rõ lòng yêu nước và tự hào của dân tộc, như một "áng thiên cổ hùng văn" bất hủ của dân tộc. Bài thơ được viết vào những năm 1982, khi mà nghĩa quân vừa đánh bại giặc Minh, kết thúc chiến tranh xâm lược đất nước.

   Đoạn 1 và đoạn 2 của bài thơ đã nêu rõ tư tưởng nhân nghĩa xuyên suốt tác phẩm và vạch rõ tội ác "trời không dung, đất không tha” của kẻ thù.

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo" .

    "Yên dân" là giúp cho đời sống của nhân dân được yên bình, đủ đầy, ấm no. Dân có yên thì đất nước mới ổn định, mới phát triển và vững bền. Việc "nhân nghĩa" là việc làm hợp lòng người, mục đích vì con người, vì ích lợi của nhân dân. Muốn dân yên thì phải lo "trừ bạo", tiêu diệt lũ cướp nước và bán nước, trừ bạo cũng là nhân nghĩa. Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng lấy dân làm gốc, tư tưởng ấy xuất phát từ mục đích hành động cụ thể, đó là yêu nước, là thương dân, là lo cho dân, và đấu tranh đánh đuổi giặc ngoại xâm. Càng muốn đời sống nhân dân đủ đầy, ấm no phải phá tan kẻ thù hung tàn bạo ngược, đó là quy luật tất yếu.

“Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có.”

     Nhân nghĩa không chỉ là yên dân, nhân nghĩa còn là ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, là văn hoá, cốt cách dân tộc. Tác giả đã khẳng định nền văn hiến của nước Đại Việt ta từ hàng ngàn năm trước đã có, đó là sự trường tồn theo thời gian, mãi mãi vững bền. Lãnh thổ đã phân rõ, phong tục mỗi miền có đặc trưng, độc đáo riêng không thể nhầm lẫn được. Từ bao đời Triệu, Đinh, Lí, Trần đã thống nhất, dựng xây nên nền độc lập, Đại Việt cũng như các triều đại Trung Quốc vậy, cũng hưng thịnh và phát triển, cũng hùng mạnh và thống nhất. Đặt các triều đại của Đại Việt ngang hàng với các nhà Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc để cho thấy được lãnh thổ, sức mạnh riêng của dân tộc ta mà không ai có thể phủ nhận được. Tuy thời thế mạnh yếu khác nhau, song đất Việt luôn có những nhân tài, hào kiệt, thao lược tài ba. Câu thơ như một lời cảnh cáo đối với những kẻ lăm le thôn tính Đại Việt. Đó là sự tự hào, lòng tự tôn mãnh liệt về văn hoá, lãnh thổ và con người nước Việt, là căn cứ chắc chắn để khẳng định với thế giới rằng nước ta hoàn toàn có tư cách độc lập và xứng đáng được hưởng thụ nền độc lập ấy.

“Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.”

    Nhờ vậy mà bao chiến công lừng lẫy năm châu, khiến sông núi cũng phải cất lên tiếng reo hò vui mừng, bao thất bại của quân giặc gánh chịu là do chúng tự chuốc lấy. Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã không bị giết thì cũng bị bắt sống, chuốc lấy thất bại thảm thương. Những kẻ phi nghĩa, ác độc dù có lớn mạnh vẫn không thể thắng được chính nghĩa, thắng được lòng dân.

    Để minh chứng cho sự thất bại đó, tác giả đã tố cáo những tội ác mà chúng đã gây ra cho dân tộc ta:

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”

     Giặc Minh lợi dụng thời cơ đất nước rối ren mà xâm chiếm nước ta. Chúng áp bức, bóc lột đồng bào ta, ra sức vơ vét sức người sức của của nhân dân Đại Việt. Chúng tàn sát bao người vô tội:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.”

 Thuế khoá nặng nề, đàn áp vô nhân đạo, huỷ diệt thiên nhiên môi trường, vơ vét từng gốc cây ngọn cỏ của nhân dân Đại Việt. Những tội ác tày trời mà chúng gây ra khiến nhân dân càng thảm thương, đói khổ, đau thương làm sao kể xiết! Cùng với đó, bọn gian tà trong nước tham lợi mà bán nước, chống lại nhân dân, khiến lòng dân càng thêm căm phẫn. Chúng biến nhân dân ta thành kẻ nô lệ, chẳng màng tính mạng một ai: 

“Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?

Nặng nề những nỗi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi.”

     Nhân dân rơi vào sự khốn cùng, bị thương, sầu não. Nghề nghiệp không còn, tan tác, đau thương, đến cùng cực tội nghiệp. Nghiệp ác mà chúng gây ra bao nhiêu trúc Nam Sơn cũng không ghi hết tội, bao nhiêu nước Đông Hải cũng không rửa hết mùi tanh bẩn của giặc. Nhân dân căm phẫn, trời đất khôn thấu.

    Chỉ với hai đoạn thơ ngắn gọn, súc tích, nhưng bằng tài năng và sự sắc sảo trong ngòi bút của mình, Nguyễn Trãi đã thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa, vì dân. Góp phần tạo tiền đề cho những phần sau của tác phẩm.


Phân tích đoạn 1 2 Bình Ngô đại cáo - Bài mẫu 4

    Nguyễn Trãi là một vị quan nhưng đồng thời cũng là nhà văn, là danh nhân văn hóa lớn của dân tộc. Ông đã góp vào kho tàng văn học trung đại nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học có giá trị và “Bình Ngô đại cáo” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Bài cáo được xem là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc. Đặc biệt, qua đoạn thứ nhất và đoạn hai của bài cáo, người đọc sẽ thấy rõ được luận đề chính nghĩa của dân tộc ta cũng như tội ác man rợ của kẻ thù. 

    Trước hết, đoạn trích mở đầu tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” đã nêu lên luận đề chính nghĩa và chân lí độc lập dân tộc, đó chính là nền tảng, là tiền cơ sở lí luận xuyên suốt cuộc kháng chiến của quân và dân ta.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

    Có thể thấy, “nhân nghĩa” từ xưa đến nay luôn là một phạm trù tư tưởng lớn của Nho giáo, nó thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Là một nhà nho, chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo nên nền tảng tư tưởng của Nguyễn Trãi cũng chính là tư tưởng “nhân nghĩa”. Với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” luôn gắn liền với việc “yên dân” và muốn “yên dân” thì phải trừ bạo để đem lại cho nhân dân cuộc sống ấm no, yên bình. Như vậy, có thể thấy, cốt lõi tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi chính là lấy dân làm gốc, làm nền tảng, vì cuộc sống yên ấm, hạnh phúc của nhân dân mà đánh đuổi bọn cường bạo.

   Thêm vào đó, tác giả còn nêu lên chân lí độc lập của dân tộc từ ngàn đời nay.

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.

    Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng tác giả Nguyễn Trãi đã gợi lên cả một chặng đường lịch sử ngàn năm văn hiến của dân tộc. Cũng như bao dân tộc, quốc gia khác, đất nước, dân tộc Đại Việt chúng ta từ ngàn đời nay có một nền văn hiến lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng và có phong tục, tập quán riêng của hai miền Nam Bắc. Dân tộc ấy đã trải qua các triều đại khác nhau, sánh vai cùng các triều đại phong kiến của phương Bắc. Và với việc đặt các triều đại của dân tộc ta sánh ngang hàng với các triều đại phong kiến Trung Quốc vừa là lời khẳng định nền độc lập, truyền thống của dân tộc vừa thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của tác giả. Thêm vào đó, để khẳng định chân lí độc lập của dân tộc, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo kể ra những chiến thắng vang dội, lẫy lừng của quân và dân ta trong lịch sử.

Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

    Trên cơ sở tiền đề lí luận đã được nêu ra, trong phần tiếp theo của bài cáo, tác giả đã soi chiếu lí luận ấy vào thực tiễn để vạch rõ những tội ác dã man của kẻ thù. Tội ác của bọn giặc trước hơn hết chính là ở việc lợi dụng tình hình rối ren ở trong nước để từ đó chúng lấy cớ và tiến vào xâm lược nước ta.

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.

   Không chỉ dừng lại ở đó, sau khi tiến vào xâm lược nước ta chúng còn thi hành hàng loạt chính sách phi nhân đạo, tàn nhẫn.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

    Bọn giặc thật tàn nhẫn, chúng giết hại dân lành bằng những hành động rất man rợ, đến cả “dân đen” - những người dân vô tội và cả những đứa trẻ thơ chúng cũng không tha. Bằng việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đặt động từ “nướng” và “vùi” lên đầu các câu thơ, dường như tác giả muốn nhấn mạnh thêm sự tàn nhẫn, độc ác của bọn giặc. Cùng với đó, bọn giặc còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy chúng vào những nơi chứa đầy những hiểm nguy, ở những nơi mà người ta biết khi đi sẽ khó lòng có thể trở về được nữa. 

    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc

   Cùng với đó, tội ác của giặc còn ở chỗ chúng đã ra sức vơ vét của cải, thuế khóa vô lí và phá hoại môi trường, cảnh quan trên đất nước ta.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

    Và để rồi, tác giả đã khép lại đoạn hai của tác phẩm bằng hai câu thơ giàu hình ảnh và đầy sức ám ảnh về những tội ác mà bọn giặc Minh đã gây ra trên đất nước ta.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

    Tác giả Nguyễn Trãi đã dùng cái vô hạn, vô cùng của “trúc Nam Sơn” và “nước Đông Hải” để nói về tội ác của kẻ thù. Từ đó, người đọc có thể thấy được tội ác không gì có thể kể hết, có thể diễn tả được của kẻ thù. Và trước những hành động ấy của giặc Minh, nhân dân ta, dân tộc ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài con đường đứng lên để hành động.

Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?

    Tóm lại, với những hình ảnh thơ độc đáo cùng ngôn ngữ sắc sảo, giọng điệu linh hoạt, hai đoạn thơ mở đầu tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” không chỉ nêu lên cho người đọc thấy được luận đề chính nghĩa, chân lí độc lập của dân tộc ta mà qua đó người đọc còn thấy được những tội ác không thể nào tha thứ được của kẻ thù.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích đoạn 1 2 Bình Ngô đại cáo do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

icon-date
Xuất bản : 30/09/2021 - Cập nhật : 01/10/2021