logo

Phân tích chi tiết bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ


Phân tích Đây Thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi

       Hàn Mặc Tử tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên chúa. Năm 1936,ông mắc bệnh phong về Quy Nhơn chữa bệnh và mất ở trại phong Quy Hoà. Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng tác giả là nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Với hồn thơ đau thương, đầy bí hiểm nhưng thể hiện được tình yêu quê hương, cuộc sống. Đây thôn Vĩ dạ là thi phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của tác giả, được viết năm 1938 in trong tập Thơ Điên (Đau Thương). Bài thơ khắc họa bức tranh xứ Huế đẹp thơ mộng, tràn đầy sức sống. Qua đó thể hiện nỗi niềm khắc khoải, và tình yêu với quê hương, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Điều đó được thể hiện qua đoạn thơ sau:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

…..

Ai biết tình ai có đậm đà“

Phân tích chi tiết bài thơ: Đây Thôn Vĩ Dạ | Văn mẫu 11 hay nhất

         Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với cô gái thôn quê ở Vĩ Dạ - một làng quê thanh bình nằm trên bờ Hương Giang, thuộc ngoại vi thành phố Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum xuê hoa trái với dòng sông Hương lững lờ trôi. Nếu ai một lần đến xứ Huế sẽ mang một nỗi niềm vấn vương, lưu luyến “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt”. Và nơi đây cũng là nguồn cảm hứng vô tận của thi ca, âm nhạc. Thi sĩ Hàn Mặc Tử có dịp về thăm Thôn Vĩ và thương thầm trộm nhớ người con gái xứ Huế - Hoàng Cúc. Năm 1938, khi đang chữa bệnh tại trại phong Quy Hoà và nhận được một bức tranh phong cảnh có mây nước hữu tình, chiếc đò ngang và cô gái mặc áo dài trắng tinh khôi, kỉ niệm chợt ùa về. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ, nhà thơ đã dành cho nơi đây vần thơ đẹp nhất với tất cả lòng mến thương. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là tiếng lòng của một thi sĩ tha thiết yêu cảnh, yêu đời.

         Tác giả vừa như phân thân vừa như mời gọi thân mật, vừa như trách móc nhẹ nhàng: ”Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Mở đầu bài thơ tác giả sử dụng câu thơ 7 chữ với 6 thanh bằng nhẹ nhàng lan tỏa và kết thúc câu thơ bằng một thanh trắc gợi cảm giác như xoáy sâu vào tâm trạng khắc khoải của tác giả. Trong lòng thi nhân luôn khát khao về thôn Vĩ. Bằng cặp mắt quan sát tinh tường  kết hợp với động từ “nhìn”, cảnh Vĩ Dạ lúc bình minh với những ngọn cau, tàu cau ngợi lên màu nắng mới, ”nắng mới lên” rực rỡ. Đó là những tia nắng ấm áp của ngày mới bắt đầu, tinh khôi. Khi những giọt sương đêm còn sót lại trên tàu lá cau, tạo nên một vẻ đẹp long lanh, ánh nắng ban mai chiếu xuyên qua tạo nên bức tranh căng tràn nhựa sống. Và đây cũng là ánh nắng ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng“

          Vẻ đẹp của Vĩ Dạ không phải tạo nên ở hình ảnh “nắng hàng cau” mà phải là hình ảnh “nắng mới lên” trên “hàng cau”. Trong khoảnh khắc ấy thì mới bộc lộ hết vẻ đẹp tuyệt vời như tranh vẽ. Với câu hỏi tu từ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” kết hợp đại từ phiếm chỉ “ai” và phép so sánh đầy sức gợi, tác giả đang miêu tả một”màu xanh như ngọc”. Ngoài ra , tính từ chỉ mức độ “mướt quá” tạo ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc, nhà thơ đang ngợi ca vẻ đẹp lung linh, xanh trong. Sắc xanh ấy gợi cho người đọc nhớ đến câu thơ của Xuân Diệu:

“Đổ trời xanh trong sang trọng

Thu đến nơi nơi đọng tiếng huyền”

          Chỉ với hai câu thơ, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa bức tranh thiên nhiên căng tràn nhựa sống,tinh diệu ở thôn Vĩ Dạ trong khoảnh khắc bình minh.Bức tranh bình minh sinh động hơn khi con người xuất hiện thấp thoáng sau vòm lá trúc “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong quan niệm của người xứ Huế, ”mặt chữ điền” mang ý nghĩa cho một khuôn mặt phúc hậu, rắn rỏi. Tác giả dân gian ca ngợi “mặt chữ điền” qua câu thơ :

“Mặt em vuông tựa chữ điền

Da em thì trắng áo đen mặc ngoài

Lòng em có đất có trời

Có câu nhân nghĩa,có lời thuỷ chung"

          Câu thơ cuối, tác giả  đã tạo nên vẻ đẹp hài hoà giữa thiên nhiên và con người qua hình ảnh “lá trúc” mong manh, mềm mại còn “mặt chữ điền” đôn hậu, khoẻ mạnh. Hai nét đẹp ấy tưởng chừng như đối lập nhưng kết hợp hài hoà tạo nên một nét duyên ngầm của con người Vĩ Dạ. Khuôn mặt ấy ẩn hiện sau “vòm lá trúc”. Khuôn mặt “chữ điền” xuất hiện tạo nên một sự sống động, hữu tình gợi lên sự kín đáo, đằm thắm, rất Huế.

        Nếu khổ một là bức tranh làng quê lúc bình minh đẹp đẽ thơ mộng thì khổ hai là chìm vào hoàng hôn với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng:

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

          Hai câu thơ đầu tác giả tạo dựng nên những hình ảnh nối tiếp nhau “gió”, “mây”, “dòng nước”, “hoa bắp” kết hợp nhịp điệu thơ chậm chạp gợi lên một nỗi buồn mênh mang, sâu thẳm của Huế. Phải chăng, đó là nỗi lòng của thi nhân khi rơi vào bi kịch và ý thức được bi kịch của mình. Bằng nghệ thuật đối lập”Gió theo lối gió, mây đường mây” kết hợp với điệp từ “gió”, “mây” được sử dụng rất đắt, hình ảnh được lặp lại không phải để nhấn mạnh cường độ của gió hay sắc thái của mây mà để đẩy gió và mây đôi đường ngăn cách. Mượn hình ảnh của gió và mây tác giả muốn nói lên nỗi buồn tủi, tuyệt vọng, về sự xa cách của mình. Dường như Hàn Mặc Tử dự cảm về một tình yêu không thành, từ đó người đọc cảm nhận được tâm trạng cô đơn, buồn đau. Câu thơ thứ hai hay nhất ở hai chữ ”buồn thiu” đặt giữa câu thơ kết hợp biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” diễn tả nỗi buồn trong lòng thi nhân, hình ảnh dòng sông trở nên u buồn xa vắng, dòng sông như bất động, ngừng chảy như vĩnh viễn đánh mất sự sống của chính mình. Có lẽ đó cũng là nỗi lòng của Hàn Mặc Tử, bởi lẽ:”Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, cái buồn ấy lan tỏa cả sang “hoa bắp lay”. Hình ảnh “hoa bắp lay”gợi một nỗi buồn hiu hắt - một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ gió đến mây đến dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách của một mối tình vô vọng, tất cả chỉ là hư ảo trong mộng tưởng. Hai câu thơ cuối, thi nhân rơi vào một thế giới của mộng ảo: ”Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay”. Bằng hai câu hỏi tu từ cùng với những hình ảnh mê hoặc lòng người “dòng sông trăng” và “thuyền” chở trăng. Trăng là thế giới riêng của nhà thơ, là bạn tri âm tri kỉ.Trăng là nơi trú ngụ cuối cùng của linh hồn ông,trốn tránh sự truy đuổi đến cùng của đau đớn và cái chết. Mở đầu bài thơ là “nắng” thoắt cái là “trăng”. Nắng và trăng đều mang đến ánh sáng cho con người. Nắng mang đến cõi thực,còn trăng là cõi mơ ảo. Tại sao thuyền phải chở trăng về kịp tối nay”- đó là câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai . Tác giả hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời  mình. Giờ đây đối với ông sống là chạy đua với thời gian, ông luôn trân trọng từng ngày từng giờ trong cái quỹ thời gian ít ỏi của mình. Từ “ kịp” nghe có gì đó khắc khoải , tha thiết và đầy hi vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa , không biết khi nào trở lại.Tối nay không biết là tối nào nhưng nếu không “kịp” chắc sẽ không còn thêm cơ hội nào nữa. Đây chính là nỗi ước ao, tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử khi nhớ mong về Thôn Vĩ. Khổ thơ thứ hai vừa vẽ lên cảnh trời mây nước lung linh, huyền ảo nhưng lại ẩn chứa nỗi lòng tha thiết của thi nhân, niềm đau dự cảm chia lìa,thất vọng trong hi vọng. Qua đó bộc lộ khát vọng sống, khát khao tình yêu.     

        Giọng thơ trở nên gấp gáp, khẩn thiết nhân vật trữ tình đã chìm trong mộng ảo “một bước nhảy vọt rất Hàn Mặc Tử không có ở đâu và không ai có”(Lê Trí Viễn):

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

         Nhà thơ đắm chìm trong cõi mộng nhưng rồi mộng trần gian say đến bao nhiêu cũng phải tỉnh. Vì thế tác giả như quay về với cõi thực nhưng tất cả lại rơi vào ảo ảnh qua điệp ngữ “khách đường xa” lặp lại hai lần kết hợp với nhịp thơ 4/3, nhà thơ hi vọng, khát khao, mong đợi người thân đến thăm để vơi bớt nỗi cô đơn, sầu tủi, nhưng càng hi vọng càng cảm thấy xa vời. Sự cách xa không chỉ về mặt không gian mà còn xa cách cả về tâm hồn và tình cảm. Giọng văn như trùng xuống, khắc khoải. Trong cõi mộng ảo, nhà văn mong chờ trong vô vọng. Thế giới ảo cũng giúp cho thi sĩ tạo nên một hình ảnh nên thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng ảo tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Tà áo dài ấy, mối tình ấy, người con gái ấy dường như rất gần lại hoá xa xôi. Tưởng như thực hóa ra ảo ảnh. Hình ảnh nàng thơ trong thơ tác giả luôn mang nghĩa biểu tượng cho cho vẻ đẹp tinh khôi và trong trắng. Vì thế màu áo trắng cứ như một ám ảnh kì lạ không thể đến gần khiến cho tác giả “ nhìn không ra”. Cụm từ “nhìn không ra” kết hợp với tính từ chỉ mức độ “ trắng quá” để miêu tả sắc trắng một cách kì lạ bất ngờ. Đây không còn là màu trắng của thực tại mà là màu của tâm tưởng. Câu thơ tạo nên một thế giới ảo nhưng có lí, làm cho người đọc ngỡ rằng là một bài thơ tả cảnh thiên nhiên xứ Huế nhưng đã trở thành một bài thơ tình - tình đơn phương khó xác định, khát vọng tình yêu đẹp giờ nhạt nhoà trong kí ức. Hai câu kết dẫn người đọc đi xa hơn cõi tâm tưởng. “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” phác họa một cảnh tượng mờ ảo với “sương” và “khói” khiến cho mọi vật trở nên hư không. “Ở đây” có thể là thế giới ở trại phong Quy Hoà với bệnh tật đau thương. Nhưng ở đây cũng có thể ở Huế, nơi thôn Vĩ thơ mộng trữ tình. Có lẽ từ “đây” trong nhan đề “ Đây thôn Vĩ dạ” tươi đẹp nên thơ. Còn “ đây” trong khổ thơ cuối là thế giới riêng của Hàn Mặc Tử , giữa hai thế giới ấy cách đúng một tầm tuyệt vọng. Qua đó người đọc cảm nhận được khát khao tình yêu, khát vọng sống của thi nhân. Mọi tâm tư của nhà thơ đều dồn vào câu thơ cuối ”Ai biết tình ai có đậm đà”. Tác giả không dám khẳng định tình mình với cô gái Huế mà chỉ nói “ai”, đại từ phiếm chỉ “ai” dường như xuyên suốt bài thơ . Nét độc đáo sáng tạo thể hiện ở ba khổ thơ, Hàn Mặc Tử đều dùng “ai”, “vườn ai”, “thuyền ai” và bây giờ “ai biết tình ai có đậm đà”. Câu thơ ngân xa như một tiếng than, nỗi đau của Hàn Mặc Tử như đang trải ra, vào cõi mênh mông vô cùng. Lời thơ dường như nhắc nhở nhưng không bộc lộ tuyệt vọng hay hi vọng mà toát lên một sự thất vọng. Sự thất vọng của một thi sĩ - người chủ của những mối tình “khuấy” mãi không thành khối của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Theo cảm xúc mạch thơ, với khổ thơ đầu lời ngợi ca vẻ đẹp ở Vĩ Dạ tràn đầy sức sống , còn khổ hai là niềm lo lắng trăn trở của thi nhân. Đọng lại ở khổ thơ cuối là tâm trạng hoài nghi, khắc khoải. Có lẽ câu thơ cuối là lời đáp lại cho câu mở đầu. Bằng câu hỏi tu từ ẩn chứa sự hoài nghi của thi nhân đối với con người thôn Vĩ. Không biết người xứ Huế có dành tình cảm cho mình hay không và khẳng định tình cảm của mình đối với con người xứ Huế. Hàn Mặc Tử là một người yêu đời, yêu người tha thiết và khát vọng được sống hạnh phúc trong tình yêu. Vì vậy, dòng thơ cuối như xoáy vào tâm can người đọc.

          Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được viết theo thể thơ 7 chữ, ngôn ngữ tinh tế, gợi hình gợi cảm, giọng điệu thiết tha, sâu lắng nhẹ nhàng. Ngoài ra bài thơ còn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi 3 câu hỏi tu từ và đại từ phiếm chỉ “ai”. Hàn Mặc Tử không chỉ  ca ngợi vẻ đẹp của xứ Huế mộng mơ mà còn bộc lộ nỗi niềm khắc khoải trân trọng từng giây phút cuộc sống và khát khao hạnh phúc. Cám ơn Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều tác phẩm hay cho nền văn học Việt Nam. Người đọc mượn lời thơ của Trần Ninh Hổ thay cho nén nhang lòng tri ân cùng thi sĩ :

Nếu nhân loại không còn khao khát nữa

Và nhà thơ- nghề chẳng kẻ nào yêu

Người thi sĩ cuối cùng vẫn là Hàn Mặc Tử

Vẫn hiện lên ở đáy vực đợi chờ”

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 05/02/2021